THỨ HAI - TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 14,13-21)
Khi ấy, Chúa Giêsu vừa nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người xuống thuyền lánh đi một nơi hoang vắng. Dân chúng nghe biết thì từ các thành thị đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ và chữa lành những người bệnh tật trong họ.
Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa Người rằng: "Đây là nơi hoang vắng, và đã muộn rồi, xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính các con hãy cho họ ăn”.
Các ông thưa lại: "Ở đây chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá!" Người bảo: "Hãy đem lại cho Thầy”. Khi truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời đọc lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ, và các ông phân phát cho dân chúng.
Mọi người đều ăn và được no nê. Người ta thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn còn dư. Số người ăn là năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
Suy niệm
Qua hai bài đọc hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm hai khung cảnh tương phản: một bên là dân Israel trong hoang địa đang than van phản loạn và Môsê rơi vào khủng hoảng đức tin; một bên là đám đông dân chúng trong thời Tân Ước đang được Chúa Giêsu dạy dỗ và dưỡng nuôi bằng chính tình thương và quyền năng của Người, với sự cộng tác tích cực của các Tông Đồ.
Trong bài đọc I (Ds 11,4b-15), dân Israel, dù đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, lại tỏ ra chán nản vì chỉ có manna ăn hằng ngày. Họ khao khát trở về với “các món ăn” quen thuộc ở Ai Cập, biểu tượng cho lối sống cũ, đầy trần tục và nô lệ. Đây là một hình ảnh điển hình cho những tâm hồn không trung thành trong đời sống đức tin: khi gặp thử thách, họ dễ dàng quên ơn cứu độ và mơ về "củ hành củ tỏi" của thế gian.
Lời than trách và nổi loạn ấy đã khiến Môsê, người lãnh đạo dân, cảm thấy quá sức chịu đựng. Ông thưa với Chúa trong sự tuyệt vọng: "Con không thể một mình mang vác cả dân này được nữa, vì nặng nề quá sức con. Nếu Chúa cứ xử với con như vậy, thì thà giết con đi cho rồi..”. (Ds 11,14-15).
Đây là một trong những đoạn hiếm hoi mô tả vị thủ lãnh trung thành như Môsê rơi vào tâm trạng chán nản cực độ. Nhưng chính trong những lúc như thế, Thiên Chúa không bỏ rơi ông. Ngài sẽ can thiệp và tiếp sức cho người cộng sự trung thành của Ngài.
Ngược lại, Tin Mừng Matthêu hôm nay (Mt 14,13-21) cho thấy một khung cảnh rạng rỡ của niềm tin và lòng trắc ẩn. Dân chúng tuôn đến với Chúa Giêsu giữa nơi hoang vắng. Thay vì xua đuổi họ về tự lo liệu, Chúa đã chạnh lòng thương và hóa bánh ra nhiều để nuôi họ no nê.
Đáng lưu ý, Chúa Giêsu không hành động đơn độc: Người bảo các Tông Đồ: “Chính các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Dù họ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, một chút ít nhỏ nhoi, nhưng với lòng vâng phục và tín thác, họ trao vào tay Chúa. Và chính từ sự cộng tác đó, phép lạ được thực hiện, không chỉ nuôi sống năm ngàn người, mà còn để lại mười hai thúng đầy bánh vụn, dấu chỉ dư tràn của tình thương Thiên Chúa khi con người biết chia sẻ.
Qua hai hình ảnh trên, chúng ta nhận ra một nguyên lý nền tảng trong đời sống Giáo Hội: sứ vụ cứu độ luôn cần đến tình thương của Thiên Chúa và sự cộng tác quảng đại của con người. Khi con người nản chí, Thiên Chúa vẫn không từ bỏ; và khi con người biết cộng tác, Thiên Chúa làm cho những điều nhỏ bé trở thành vĩ đại.
Giáo huấn Công giáo đã khẳng định rõ điều này: “Thiên Chúa muốn con người cộng tác vào công trình sáng tạo, cứu độ và thánh hóa. Điều này là một vinh dự, nhưng cũng là một trách nhiệm” (x. GLCG 307).
Đặc biệt, hôm nay chúng ta được mời gọi cầu nguyện cách riêng cho các mục tử trong Giáo Hội, những Môsê và các Tông Đồ của thời đại, đang vác trên vai những trách vụ nặng nề giữa một thế giới đầy khủng hoảng và mỏi mệt. Và đồng thời, ta cũng nhớ rằng chính mỗi người Kitô hữu, dù là giáo dân, tu sĩ hay linh mục, đều được mời gọi trở nên cộng sự viên của Thiên Chúa trong sứ mạng truyền giáo. Như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Chúng tôi là những người cộng tác với Thiên Chúa” (2Cr 6,1).
Sự kiện hóa bánh ra nhiều tiên báo bí tích Thánh Thể, nơi Chúa Kitô tiếp tục ban chính Mình và Máu Người để nuôi sống Giáo Hội. Ngài là vị Mục Tử Nhân Lành, không bỏ rơi đoàn chiên đói khát, nhưng luôn chăm sóc, dưỡng nuôi bằng lương thực hằng sống: “Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Bí tích Thánh Thể vừa là ân ban từ tình thương của Chúa, vừa là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu biết chia sẻ, hiệp thông và trở nên tấm bánh bẻ ra cho người khác, đặc biệt là những ai đói khổ về thể xác lẫn tinh thần.
Câu hỏi suy niệm
Tôi có thực sự là một cộng sự viên tích cực trong Giáo Hội của Chúa không?
Tôi đang góp phần xây dựng hay đang kéo Giáo Hội đi xuống bằng thái độ tiêu cực, than trách, khép kín hay thờ ơ?
THỨ BA - TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 14,22-36)
Khi dân chúng đã ăn no, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Sau khi giải tán họ, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Người vẫn ở đó một mình.
Còn thuyền thì đã ra xa bờ nhiều cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Canh tư đêm ấy, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt, bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên.
Đức Giêsu liền bảo các ông: “Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Ông Phêrô liền thưa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Đức Giêsu bảo: “Cứ đến!”. Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió mạnh, ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Lạy Ngài, xin cứu con với!”. Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”.
Khi Thầy trò lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!”.
Khi qua biển rồi, Đức Giêsu và các môn đệ lên đất liền, vào Gennêsarét. Dân địa phương nhận ra Người, liền cho người đi báo khắp vùng, và người ta đem tất cả bệnh nhân đến với Người. Họ xin được chạm vào tua áo của Người, và ai chạm vào thì đều được khỏi bệnh.
Suy niệm
Hai bài đọc hôm nay tiếp nối chủ đề từ hôm qua, nhưng đi sâu hơn vào tương quan cá vị giữa Thiên Chúa và những người được Ngài chọn để cộng tác trong sứ vụ. Trong bài đọc I (Ds 12,1-13), ta chứng kiến việc Môsê bị nói xấu bởi chính anh chị em ruột là Miriam và Aharon. Thiên Chúa đã lập tức bênh vực Môsê và cho thấy Ngài xem ông như “người bạn thân thiết, được nói chuyện trực diện” (x. Ds 12,6-8).
Lỗi lầm của Miriam, tượng trưng cho những lời nói xấu hay hành vi thiếu tôn trọng người đại diện Chúa, bị phạt cách nhãn tiền qua bệnh phong. Nhưng khi Môsê cầu nguyện cho bà, Thiên Chúa nhận lời, và bà chỉ bị phạt trong bảy ngày. Chi tiết này nhấn mạnh hai điều:
Thứ nhất, người lãnh đạo đích thực là người luôn biết cầu nguyện và tha thứ, ngay cả khi bị xúc phạm.
Thứ hai, Thiên Chúa bảo vệ những ai trung thành phục vụ Ngài, và đòi hỏi nơi chúng ta lòng kính trọng đối với những người được sai đi nhân danh Ngài.
Thánh Phaolô đã viết: "Anh em hãy nhớ: những ai coi thường người lãnh đạo, là đang coi thường chính Đấng đã thiết lập họ, tức là Thiên Chúa" (x. 1Tx 4,8).
Trong bài Tin Mừng (Mt 14,22-36), Chúa Giêsu tỏ lộ khuôn mặt của một người lãnh đạo lý tưởng: cầu nguyện trong cô tịch, âm thầm đồng hành với các môn đệ, và luôn sẵn sàng cứu họ trong cơn nguy khó.
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, một thành công vang dội, Chúa "bắt các môn đệ xuống thuyền" và lên núi cầu nguyện một mình. Đây là một bài học sống động cho các mục tử: không bám vào hào quang thế gian, nhưng luôn tìm đến sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha trong thinh lặng.
Khi các môn đệ đang chật vật vì sóng gió giữa biển, Chúa không bỏ rơi họ. Người đi trên mặt nước để đến với họ, hình ảnh tuyệt đẹp về một vị Thiên Chúa không xa lạ, mà gần gũi, đồng hành và luôn kịp thời nâng đỡ.
Hình ảnh Phêrô bước ra khỏi thuyền, đi trên mặt nước đến với Chúa rồi bị chìm vì yếu tin, là một biểu tượng mạnh mẽ của đời sống thiêng liêng. Bao lâu chúng ta giữ ánh mắt nơi Chúa, thì chúng ta đi vững trong đức tin. Nhưng khi để ý đến sóng gió, tức là để cho sợ hãi, nghi ngờ, thế gian lôi kéo, ta dễ dàng sa ngã. Chúa liền đưa tay ra nâng đỡ, nhưng cũng nhắc nhở nhẹ nhàng: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14,31).
Từ hai bài đọc, ta hiểu rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai Ngài kêu gọi phục vụ, nhưng đồng thời Ngài cũng đòi hỏi họ sự trung tín, khiêm hạ và can đảm.
Giáo huấn của Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh vai trò của toàn thể Dân Chúa: “Giáo Hội không chỉ là hàng giáo phẩm, nhưng là toàn thể Dân Chúa được kêu gọi nên thánh và cộng tác trong việc xây dựng Nước Trời” (x. Lumen Gentium, số 9).
Vì thế, mỗi người Kitô hữu, dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, đều được mời gọi làm cộng sự viên tích cực của Chúa trong Giáo Hội. Ta không được nói xấu, chỉ trích, hay phá hoại từ bên trong. Trái lại, khi thấy các mục tử yếu đuối, ta hãy cầu nguyện cho các ngài. Khi thấy bạn hữu lung lay đức tin, ta hãy nâng đỡ họ. Khi thấy Giáo Hội gặp thử thách, ta hãy sống thánh thiện hơn, vì mỗi một hành động thánh thiện là một viên gạch xây dựng Hội Thánh.
Hình ảnh con thuyền giữa biển khơi là hình ảnh quen thuộc của Giáo Hội. Trải qua bao sóng gió, từ những cơn bách hại bên ngoài đến khủng hoảng nội bộ, Giáo Hội vẫn đứng vững vì có Chúa Kitô là Thuyền Trưởng, và vì có những người con trung tín gắn bó với Ngài.
“Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và hiến mình vì Giáo Hội để thánh hóa Giáo Hội” (Ep 5,25-26).
Nếu ta sống đúng ơn gọi Kitô hữu, nghĩa là sống đức tin kiên vững, khiêm nhường, từ bỏ điều xấu và tích cực góp phần xây dựng cộng đoàn, thì ta đã đang chèo chống con thuyền Giáo Hội vượt qua phong ba. Dù không ai thấy, nhưng Chúa thấy. Dù không được tán dương, nhưng phần thưởng sẽ dành nơi Nước Trời.
Câu hỏi suy niệm
Tôi có đang góp phần nâng đỡ hay làm suy yếu Giáo Hội qua cách sống và lời nói của mình?
Tôi có đang cầu nguyện đủ cho các linh mục, giám mục, những người Chúa đã đặt làm người lãnh đạo Hội Thánh không?
THỨ TƯ - TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 15,21-28)
Khi ấy, Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn. Thì này có một người đàn bà xứ Canaan, từ miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin thương xót tôi! Con gái tôi bị quỷ ám, khốn cực lắm!”. Nhưng Người không đáp lại một lời. Các môn đệ đến gần, xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.
Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Nhưng bà kia đến lạy Người mà thưa rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống”.
Bấy giờ, Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì sẽ được vậy!”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Suy niệm
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào..”.
Lời ca bất hủ của nhạc sĩ Y Vân gợi lại hình ảnh một tình yêu âm thầm, kiên trì, và không điều kiện. Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay là một minh chứng sống động cho tình mẫu tử thiêng liêng ấy: một người mẹ xứ Canaan, không thuộc dân được chọn, đã vượt qua mọi rào cản dân tộc, tôn giáo, sự khinh miệt, và cả im lặng lạnh lùng của Chúa Giêsu, để cầu xin ơn chữa lành cho đứa con gái bị quỷ ám.
Nỗi đau của người mẹ này không phải là của riêng bà, mà cũng là hình ảnh đại diện cho những người mẹ hôm nay, trong thinh lặng và nhẫn nại, vẫn đang từng ngày quỳ gối cầu nguyện cho con cái họ giữa một thế giới đầy bóng tối và thử thách.
“Con gái tôi bị quỷ ám, khốn cực lắm!” (Mt 15,22)
Câu kêu van ấy là tiếng gào thét của một trái tim bị xâu xé vì đau đớn, nhưng đồng thời cũng là một lời khẩn cầu đầy tin tưởng. Dẫu bị từ chối, bị khinh thường, người mẹ ấy vẫn không bỏ cuộc, bởi lòng mẹ không bao giờ biết mỏi mệt khi cầu xin điều tốt cho con mình.
Điều khiến Chúa Giêsu ngạc nhiên và khen ngợi không chỉ là tình mẫu tử, mà chính là sự phát triển dần dần nhưng bền vững của đức tin nơi bà.
Ban đầu, bà gọi Người là “Con vua Đavít”, một danh xưng mang ý nghĩa thiên sai nhưng vẫn còn giới hạn trong khung hiểu biết của người Do Thái.
Sau đó, bà quỳ lạy và gọi Người là “Lạy Ngài”, tương đương với “Lạy Chúa”, một lời tuyên xưng mang tính cá vị, sâu sắc và khiêm tốn.
Khi Chúa Giêsu thử thách đức tin của bà bằng một lời tưởng như khắc nghiệt: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26), thì bà không phẫn nộ cũng không tự ái. Trái lại, bà đáp lại bằng một lòng khiêm tốn sâu xa và đầy khôn ngoan: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống” (Mt 15,27).
Chính câu trả lời này, từ một người ngoại đạo, bị xem là ô uế, đã trở thành bài học đức tin cho tất cả những ai đang đi tìm Chúa. Đức tin không nằm ở nguồn gốc hay danh phận, mà ở lòng khiêm nhường và sự kiên trì bám lấy lòng thương xót của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thốt lên một lời khen ngợi hiếm có: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” (Mt 15,28). Và ngay lập tức, lời cầu xin của bà được nhận lời: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy!”
Trong nhiều đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Đức tin của con đã cứu con” (x. Mt 9,22; Lc 8,48), “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải…” (x. Mt 17,20)
Đức tin không chỉ là chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, mà là một tương quan sống động, cá vị, sẵn sàng tin tưởng ngay cả khi không thấy gì rõ ràng, dám bám lấy Chúa dù bị từ chối, và không bao giờ đầu hàng.
Câu chuyện người mẹ xứ Canaan hôm nay nhắc nhở mỗi chúng ta rằng:
Khi con cái sa ngã, người mẹ phải tiếp tục cầu nguyện thay cho chúng.
Khi đời sống đức tin bị thử thách, ta hãy giữ lấy lòng khiêm nhường và kiên trì.
Khi dường như Chúa im lặng, đừng vội nản chí, vì chính sự im lặng ấy có thể là một cuộc thử lửa đức tin, để ta trưởng thành hơn trong tương quan với Chúa.
Câu hỏi suy niệm
Tôi có đang kiên trì cầu nguyện cho những người thân yêu, đặc biệt là những ai đang xa Chúa?
Khi gặp thử thách trong đức tin, tôi có biết khiêm tốn, bền lòng và đặt trọn niềm tin vào lòng thương xót Chúa không?
THỨ NĂM TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 16,13-19)
Khi ấy, Chúa Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarêa Philipphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì nói là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, có người lại cho là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”.
Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu đáp: “Hỡi Simon con ông Giôna, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho con điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Và Thầy bảo cho con biết: con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời; dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất con tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
Suy niệm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được chứng kiến một khoảnh khắc quan trọng mang tính khai mở trong sứ vụ của Đức Giêsu: Ngài đặt một câu hỏi mang tính quyết định với các môn đệ, không chỉ là việc lắng nghe dư luận, mà là câu hỏi trực tiếp: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Chính lúc ấy, Simon Phêrô đã mạnh mẽ thốt lên: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên tín này, như Chúa Giêsu khẳng định, không đến từ suy đoán loài người, nhưng là một ơn mặc khải từ Chúa Cha.
Đáp lại lời tuyên xưng ấy, Đức Giêsu không chỉ chúc phúc mà còn thiết lập một sứ mạng: “Con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ đây, Simon được gọi là Phêrô, tức là “Tảng Đá”.
Điều kỳ diệu nằm ở chỗ: tảng đá ấy không phải là một khối hoàn hảo, không tỳ vết. Phêrô là con người có cả lòng nhiệt thành lẫn những vấp ngã lớn lao. Ông từng nói sẽ không bao giờ bỏ Thầy, nhưng lại chối Thầy ba lần (x. Mt 26,69-75). Ông từng khuyên Chúa tránh con đường khổ nạn, nhưng bị quở trách: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy!” (Mt 16,23). Dù vậy, Đức Giêsu vẫn không rút lại sự tín nhiệm, vẫn đặt ông làm nền tảng Hội Thánh.
Điều ấy khiến chúng ta suy gẫm sâu xa: Thiên Chúa không chọn lựa con người vì sự hoàn hảo của họ, mà vì lòng tin họ đặt nơi Ngài.
Hình ảnh Phêrô, một tảng đá từ lòng tin, cũng gợi lại chuyện dân Israel trong sa mạc, khi ông Môsê đập vào tảng đá để nước tuôn ra nuôi sống dân (x. Ds 20,1-13). Trong bài đọc I hôm nay (Ds 20,1-18), chúng ta thấy dân than trách vì thiếu nước, và Môsê đã làm theo lệnh Thiên Chúa: nước từ tảng đá chảy ra, cứu sống toàn dân. Tảng đá trở thành biểu tượng của sự sống.
Giờ đây, Phêrô, Tảng Đá mới, sẽ là nền tảng Giáo Hội, từ đó dòng nước ân sủng tuôn chảy đến nhân loại qua các bí tích. Hội Thánh không phải chỉ là cơ cấu nhân loại, nhưng là một nhiệm thể sống động, được thiết lập bởi chính Đức Kitô, đặt trên đức tin và lòng hoán cải không ngừng.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (số 552) giải thích: "Chỉ một mình Phêrô được gọi là ‘tảng đá’ của Hội Thánh. Từ Phêrô phát xuất địa vị riêng biệt của ông trong số các Tông đồ, và từ địa vị này phát sinh sứ vụ mục tử của ông đối với toàn thể Hội Thánh”.
Sự kiện Chúa chọn Phêrô, người yếu đuối, sợ hãi, từng vấp ngã, để làm đá tảng cho Giáo Hội là một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta. Chúng ta, những Kitô hữu bình thường, đôi khi cũng như Phêrô: dễ xúc động, nhưng cũng dễ sa ngã, có lúc nhiệt thành, có lúc lại mệt mỏi đức tin. Nhưng Tin Mừng dạy rằng: sự yếu đuối không phải là lý do để Thiên Chúa loại trừ chúng ta, mà là lý do để Ngài biến đổi chúng ta.
Như thánh Phaolô viết: “Những gì yếu đuối đối với thế gian thì Thiên Chúa lại chọn để làm hổ thẹn những kẻ mạnh… hầu không ai có thể tự phụ trước mặt Thiên Chúa”. (1Cr 1,27-29)
Điều quan trọng là chúng ta biết khiêm nhường nhìn nhận giới hạn của mình, biết ăn năn, và tiếp tục tiến bước. Phêrô đã khóc sau khi chối Chúa, và chính giọt nước mắt đó đã thanh tẩy ông để trở lại với niềm tin mạnh mẽ hơn.
Câu hỏi suy tư
Chúa Giêsu đang hỏi tôi hôm nay: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”
Tôi trả lời Ngài bằng đức tin sống động, hay chỉ bằng những công thức học thuộc lòng? Tôi có thật sự để Đức Kitô trở thành trung tâm trong mọi chọn lựa của mình, dù là trong thành công hay vấp ngã?
THỨ SÁU - TUẦN XVII THƯỜNG NIÊN
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 16,24-28)
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi lại mạng sống mình?
Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Thầy bảo thật anh em: trong số những người có mặt tại đây, có những người sẽ không phải chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị”.
Suy niệm
Bài đọc thứ nhất hôm nay (Đnl 4,32-40) là một đoạn giảng huấn đầy cảm xúc của ông Môsê dành cho dân Israel. Sau khi đã trải qua hành trình dài trong sa mạc, ông Môsê kêu gọi dân hãy nhớ lại những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho họ: “Từ trời cao, Người đã cho ngươi nghe tiếng Người để giáo huấn ngươi, và ở dưới đất, Người cho ngươi thấy lửa vĩ đại của Người” (Đnl 4,36). Ông nhấn mạnh rằng: “Hãy biết và ghi tạc điều này trong lòng: Chính Đức Chúa là Thiên Chúa, ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, không có Chúa nào khác” (Đnl 4,39).
Từ niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất và quyền năng đó, phụng vụ dẫn chúng ta đến Tin Mừng theo thánh Mátthêu. Sau khi mạc khải về con đường khổ nạn mà Người sắp đi, Chúa Giêsu đã thẳng thắn nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Thiên Chúa được mạc khải trong Cựu Ước là Đấng Tạo Hóa quyền năng, can thiệp trong lịch sử để giải thoát và đồng hành với dân Ngài. Nhưng Thiên Chúa ấy, trong Tân Ước, đã trở nên một con người, Đức Giêsu Kitô, Đấng chấp nhận đi vào lịch sử con người bằng con đường khiêm hạ và thập giá.
Chính sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Chúa Giêsu đã tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Nhưng khi Phêrô ngăn cản, không muốn Thầy mình chịu đau khổ, Chúa đã quở trách: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).
Câu nói ấy không chỉ dành cho Phêrô. Đó là lời cảnh tỉnh cho tất cả những ai theo Chúa nhưng vẫn giữ trong lòng một hình ảnh về Thiên Chúa vinh quang theo kiểu trần gian, không thập giá, không hy sinh, không lội ngược dòng thế gian.
Lời mời gọi “từ bỏ chính mình, vác thập giá” không dành riêng cho các tu sĩ hay những người chịu bách hại. Đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nhấn mạnh rằng: “Làm môn đệ của Đức Giêsu có nghĩa là đón nhận thập giá hằng ngày, và đồng hành với Người trên con đường yêu thương trao ban cho đến tận cùng”. (Huấn dụ ngày 30/06/2013)
Đi theo Chúa không chỉ là chuyện cảm xúc bồng bột lúc ban đầu. Theo Chúa là chấp nhận từng ngày sống trung thành, ngay cả khi điều ấy đòi hỏi phải đi ngược lại trào lưu xã hội, chấp nhận bị hiểu lầm, thiệt thòi, đau khổ.
Thánh Phaolô đã từng xác tín: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Và ngài còn thêm: “Tôi hằng mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu” (2Cr 4,10).
Chúng ta có thể nói mình theo Chúa, nhưng lối sống của chúng ta có đang làm chứng cho Chúa không? Hay chúng ta chỉ muốn một “Kitô giáo tiện nghi”, giữ đạo khi thuận lợi, và than trách khi gặp thử thách?
Chúa Giêsu không chỉ nói đến thập giá, Người còn nói đến phần thưởng vĩnh cửu: “Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27). Vì thế, đau khổ không phải là cùng đích. Con đường thập giá là hành trình dẫn đến vinh quang. Không có sự sống lại nếu không có Thứ Sáu Tuần Thánh. Không có triều thiên vinh hiển nếu không chấp nhận hy sinh mỗi ngày.
Câu hỏi suy tư
Tôi đang theo Chúa với tinh thần nào?
Tôi có sẵn lòng “từ bỏ chính mình” để sống theo Tin Mừng giữa một thế giới đang đề cao cái tôi, hưởng thụ và danh vọng không? Khi gặp thập giá trong đời, bệnh tật, hiểu lầm, công việc khó khăn, thất bại, cô đơn, tôi có sẵn sàng vác lấy và bước đi với Chúa không?
THỨ BẢY - TUẦN XVII THƯỜNG NIÊN
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 17,14-19)
Khi ấy, có một người đến gần Chúa Giêsu, quỳ lạy và thưa rằng: “Lạy Thầy, xin thương xót con trai tôi, vì cháu mắc bệnh kinh phong và đau khổ lắm; cháu thường ngã vào lửa và nhiều khi ngã xuống nước. Con đã đem cháu đến cho các môn đệ Thầy, nhưng họ không chữa được”.
Chúa Giêsu đáp: “Hỡi thế hệ cứng lòng và hư hỏng, bao lâu nữa Ta còn phải ở với các ngươi? Bao lâu nữa Ta còn phải chịu đựng các ngươi? Hãy đem nó lại đây cho Ta”.
Chúa Giêsu quát mắng quỷ, và nó xuất ra khỏi đứa trẻ; ngay lúc đó, đứa trẻ được khỏi.
Bấy giờ, các môn đệ đến gặp riêng Chúa Giêsu và hỏi: “Tại sao chúng con không trừ được quỷ ấy?” Chúa Giêsu nói: “Vì các con yếu lòng tin. Thầy bảo thật các con: nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì các con sẽ nói với núi này: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia,’ thì nó sẽ đi, và chẳng có gì mà các con không làm được”.
Suy niệm
Hình ảnh người cha trong Tin Mừng hôm nay thật cảm động. Vì tình yêu đối với con, ông đã không ngần ngại quỳ lạy nài xin Chúa Giêsu chữa lành cho con mình, dù trước đó ông đã thất vọng khi các môn đệ không thể giúp được gì. Ông vẫn giữ nguyên lòng trông cậy và tin tưởng rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có thể cứu con ông.
Tình yêu và niềm tin ấy là gương mẫu cho tất cả chúng ta, nhất là trong những lúc đối diện với thử thách, khi lời cầu nguyện tưởng như vô vọng, và khi người đại diện của Giáo Hội đôi khi cũng bất toàn. Nhưng người cha ấy không để sự thất bại của các môn đệ làm cản trở niềm tin của ông. Ông không đặt niềm tin vào con người, mà đặt trọn niềm tin vào chính Đức Kitô.
Thánh Phaolô viết: “Lòng mến thì nhẫn nhục, hiền hậu… Lòng mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
Tình yêu của người cha và niềm tin nơi Chúa Giêsu là hai mặt của cùng một thái độ nội tâm: yêu thì sẽ tin, và tin thì sẽ hy vọng đến cùng. Chính nhờ tình yêu dành cho con mà người cha ấy đã can đảm vượt qua thất vọng, quỳ gối và kêu cầu lòng thương xót của Đức Giêsu. Đây cũng là một gợi hứng cho đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu: cầu nguyện không phải là một cử chỉ máy móc, mà là một hành vi của đức tin sống động và khiêm tốn.
Sau khi Chúa chữa lành đứa trẻ, các môn đệ đến hỏi Chúa: “Tại sao chúng con không trừ được quỷ ấy?” Câu trả lời của Chúa thật mạnh mẽ: “Vì các con yếu lòng tin… Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được” (Mt 17,20).
Lòng tin, theo Chúa Giêsu, không chỉ là niềm xác tín mơ hồ, mà là sức mạnh thực tiễn. Không phải đức tin lớn hay nhỏ, mà là đức tin “sống động”, đức tin hành động trong lòng mến (x. Gl 5,6), đức tin gắn chặt với Thiên Chúa, chứ không phải chỉ vào năng lực bản thân hay người khác.
Trong Giáo Hội, đã không ít lần người ta cảm thấy chao đảo vì những thất bại, yếu kém hoặc gương mù gương xấu của chính những người có trách nhiệm. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: chính lúc ấy, ta cần phải nhìn lại lòng tin của mình có thực sự đặt nơi Chúa không.
Bài đọc I trong sách Đệ Nhị Luật nhắc nhớ dân Israel phải đặt lòng trung thành tuyệt đối vào Thiên Chúa: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Đnl 6,5). “Ngươi phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ phụng sự một mình Người mà thôi” (Đnl 6,13).
Trong đời sống thiêng liêng, không có nền tảng nào vững bền hơn là chính Thiên Chúa, Đấng không thay đổi, hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi (x. Hr 13,8). Niềm tin của chúng ta không thể chỉ bám vào thành công, vào con người hay các phương tiện tổ chức, mà phải bén rễ nơi chính Thiên Chúa, Đấng hằng sống.
Câu hỏi suy tư
Tôi có thường để những thất bại, những giới hạn của con người làm tôi nản lòng trong đức tin không?
Tôi có thật sự tin rằng, dù người khác có yếu đuối hay bất toàn, thì chính Chúa vẫn luôn hiện diện, vẫn luôn yêu thương, và vẫn luôn hành động trong cuộc đời tôi?
Amen.