Các biểu tượng và danh xưng của Chúa Thánh Thần



Chúa Thánh Thần, cùng hoạt động với Chúa Cha và Chúa Con từ lúc khởi đầu, được Đức Giêsu mạc khải trong nhiều đoạn Thánh kinh khác nhau. Sau khi chấm dứt sứ mạng trần thế, Thánh Thần được sai đến để tiếp tục công trình cứu rỗi nhân loại.

“Chúa Thánh Thần cùng hoạt động với Chúa Cha và Chúa Con từ lúc khởi đầu cho đến khi hoàn tất kế hoạch cứu độ chúng ta. Nhưng chỉ trong “thời sau hết”, bắt đầu từ cuộc Nhập Thể cứu chuộc của Chúa Con, Chúa Thánh Thần mới được mặc khải và truyền thông, được nhận biết và đón nhận với tư cách là một Ngôi Vị…. kế hoạch của Thiên Chúa, được hoàn thành trong Đức Kitô, Đấng là “Trưởng tử” và là Đầu của công trình tạo dựng mới, đã có thể được thành hình cụ thể trong nhân loại nhờ việc tuôn đổ Thần Khí” (GLCG 686).

Và Thánh Thần trong dòng lịch sử cứu rỗi, được nhận biết bằng những biểu tượng và nhiều danh hiệu khác nhau. Chắc chắn chúng ta không hiểu hết được toàn bộ hoạt động của Thánh Thần trong mầu nhiệm Ba Ngôi, tuy nhiên, với những biểu tượng được Hội thánh thường xuyên sử dụng, cách nào đó cũng giúp các tín hữu hiểu được hoạt động của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Dưới đây là 9 biểu tượng được liệt kê trong sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo. Tất cả biểu tượng này có nguồn gốc từ Thánh Kinh và cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về hoạt động của Đấng Bảo Trợ.

1. NƯỚC

“Nước. Trong bí tích Rửa Tội, nước là một biểu tượng nói lên tác động của Chúa Thánh Thần, vì vậy, sau lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần, nước trở thành dấu chỉ bí tích hữu hiệu của việc tái sinh: giống như trong lần sinh ra thứ nhất chúng ta được cưu mang trong nước, thì cũng vậy, nước Rửa Tội thật sự nói lên rằng việc chúng ta được sinh vào đời sống thần linh được ban trong Chúa Thánh Thần. Nhưng, “chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí”, “và tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13): Vì vậy, đích thân Thần Khí cũng là Nước hằng sống, chảy ra từ Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá như từ nguồn mạch của mình, và vọt ra thành sự sống vĩnh cửu trong chúng ta” (GLCG 694).

2. XỨC DẦU

“Sự xức dầu. Sự xức dầu cũng là một biểu tượng nói về Chúa Thánh Thần, đến độ từ này trở thành đồng nghĩa với Chúa Thánh Thần. Trong nghi thức khai tâm Kitô Giáo, việc xức dầu là dấu chỉ bí tích của phép Thêm Sức, mà các Giáo Hội Đông phương gọi cách chính xác là “Sự Xức dầu thánh”. Nhưng để hiểu thật rõ, phải trở lại với cuộc xức dầu đầu tiên bởi Chúa Thánh Thần: cuộc xức dầu cho Chúa Giêsu. “Kitô” (tiếng Do-thái là Mêsia) có nghĩa là “người được xức dầu” bằng Thần Khí Thiên Chúa […] Đức Kitô được đầy Thánh Thần, và sức mạnh của Chúa Thánh Thần xuất phát từ Đức Kitô trong những hành vi chữa lành và cứu độ của Người. Cuối cùng chính Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Lúc đó Chúa Giêsu, được thiết đặt làm Đức Kitô một cách trọn vẹn trong nhân tính đã chiến thắng sự chết của Người, tuôn đổ Chúa Thánh Thần cách tràn đầy cho đến khi “các Thánh”, trong sự kết hợp với nhân tính của Con Thiên Chúa, làm nên “con người trưởng thành tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13), làm nên “Đức Kitô toàn thể” (“totum Christum”) theo cách nói của thánh Augustinô” (GLCG 695).

3. LỬA

“Lửa. Trong khi nước là biểu tượng của việc sinh sản và sinh sôi nảy nở của sự sống được ban trong Chúa Thánh Thần, thì lửa là biểu tượng của sức mạnh có sức biến đổi của các hoạt động của Chúa Thánh Thần. […] Dưới hình ảnh những cái lưỡi “như bằng lửa”, Chúa Thánh Thần ngự trên các môn đệ vào sáng ngày lễ Ngũ Tuần và xuống đầy lòng các ông. Truyền thống linh đạo sẽ giữ lại biểu tượng ngọn lửa như biểu tượng diễn cảm nhất của hành động của Chúa Thánh Thần: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1 Tx 5,19) (GLCG 696).

4 và 5. ÁNG MÂY VÀ ÁNH SÁNG

Áng mây và ánh sáng. Hai biểu tượng này là không thể tách biệt trong các cuộc tỏ hiện của Chúa Thánh Thần. Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước, áng mây khi mờ tối, khi chói sáng, vừa mặc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất sự siêu việt của vinh quang Ngài; với ông Môsê trên núi Xinai, trong Lều Hội Ngộ và suốt cuộc hành trình trong hoang địa; với vua Salômôn dịp cung hiến Đền Thờ. Rồi những hình ảnh này được Đức Kitô hoàn thành trong Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần ngự đến trên Đức Trinh Nữ Maria và “phủ bóng” trên Bà, để Bà thụ thai và hạ sinh Chúa Giêsu. Trên núi Hiển Dung, chính Chúa Thánh Thần đến trong đám mây bao phủ Chúa Giêsu, ông Môsê và ông Êlia, cùng với các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, và “từ đám mây có tiếng phán rằng: ‘Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người’” (Lc 9,35). Cuối cùng, cũng chính đám mây này “quyện lấy Chúa Giêsu khuất mắt” các môn đệ trong ngày Thăng Thiên và sẽ mặc khải Con Người trong vinh quang của Người vào ngày Người ngự đến” (GLCG 697).

6. DẤU ẤN

“Dấu ấn là một biểu tượng rất gần với biểu tượng xức dầu. Thật vậy, Đức Ki-tô là Đấng “Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6,27), và trong Người, Chúa Cha cũng ghi dấu xác nhận chúng ta. Hình ảnh “dấu ấn”, bởi vì nói lên hiệu quả không thể xóa nhòa của việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần trong các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Truyền Chức Thánh, nên đã được dùng trong một số truyền thống thần học để diễn tả “ấn tín” không thể xóa được, được ghi dấu bởi ba bí tích không thể được tái ban đó” (GLCG 698).

7. BÀN TAY

“Bàn tay. Chúa Giêsu đặt tay để chữa lành cho các bệnh nhân và chúc lành cho các trẻ em. Các Tông Đồ cũng làm như vậy nhân danh Người. Hơn nữa, chính qua việc đặt tay của các Tông Đồ mà Chúa Thánh Thần được ban. Thư gửi tín hữu Do-thái kể việc đặt tay vào số “các mục căn bản” của giáo huấn của mình. Hội Thánh đã giữ lại dấu chỉ này của việc tuôn đổ tràn đầy Thánh Thần trong các kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần [Epiclesis] trong các bí tích” (GLCG 699).

8. NGÓN TAY

“Ngón tay. Chúa Giêsu “dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ.” Nếu Lề luật của Thiên Chúa được ghi trên các bia đá “do chính tay Thiên Chúa viết” (Xh 31,18), thì “lá thư của Đức Kitô”, được trao cho các tông đồ chăm sóc, “đã được viết… bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2 Cr 3,3). Thánh thi “Veni Creator Spiritus” (“Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin ngự đến”) khẩn cầu Chúa Thánh Thần bằng những lời này: “Chúa là ngón tay trong bàn tay mặt của Chúa Cha” (GLCG 700).

9. CHIM BỒ CÂU

“Chim bồ câu. Vào cuối trận lụt đại hồng thủy (đây là một biểu tượng chỉ bí tích Rửa Tội), chim bồ câu được ông Nôê thả ra đã trở về, ngậm một nhánh ô liu xanh tươi, báo cho biết mặt đất lại đã có thể cư ngụ được. Khi Chúa Giêsu tiến lên từ dòng nước phép rửa của Người, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp xuống và ngự trên Người. Chúa Thánh Thần đáp xuống trái tim đã được thanh tẩy của những người lãnh bí tích Rửa Tội và nghỉ ngơi ở đó. Trong một số nhà thờ, Thánh Thể được lưu giữ trong một bình bằng kim loại có hình chim bồ câu (gọi là columbarium) treo bên trên bàn thờ. Trong truyền thống nghệ thuật ảnh tượng Kitô Giáo, chim bồ câu là biểu tượng để chỉ Chúa Thánh Thần” (GLCG 70).

Ngoài ra Chúa Thánh Thần còn có những danh xưng khác:

"Khi Chúa Giêsu loan báo và hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ ngự đến, Người gọi Chúa Thánh Thần là “Đấng Bào Chữa” (Paracletus), hoặc sát chữ là “Đấng được gọi đến bên mình”, advocatus (Ga 14,16.26; 15,26; 16,7). Paracletus cũng thường được dịch là “Đấng An ủi”, và Chúa Giê-su là Đấng An ủi thứ nhất. Chính Chúa gọi Chúa Thánh Thần là “Thần chân lý”  (GLCG 692).

Ngoài danh xưng riêng của Ngài, rất thường được dùng trong sách Công Vụ Tông Đồ và các Thánh Thư, ta còn thấy những danh hiệu nơi thánh Phaolô như sau: Thần Khí của lời hứa (Ep 1,13; Gl 3,14), Thần Khí nghĩa tử (Rm 8,15; Gl 4,6), Thần Khí của Đức Kitô (Rm 8,9) Thần Khí của Chúa (2 Cr 3,17), Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8,9.14; 15,19; 1 Cr 6,11; 7,40); và nơi thánh Phê-rô: Thần Khí của vinh quang (1 Pr 4,14)" (GLCG 693).

G. Võ Tá Hoàng

Mới hơn Cũ hơn