Dave Armstrong
Một thách thức đến từ Tin Lành dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về sự hiện diện thần linh trong Kinh Thánh.
François Turretin (1623–1687) là một nhà thần học Tin Lành cải cách, thường được xem là nhà hộ giáo xuất sắc nhất cho thuyết Calvin, chỉ sau chính Calvin. Trong tác phẩm Institutes of Elenctic Theology của mình, ông đã phản bác lại giáo lý về Sự Hiện Diện Thật của Đức Kitô trong Thánh Thể. Ông viết : “Đấng đã rời khỏi thế gian với thân xác, để về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa... thì không thể nói rằng Ngài hiện diện cách thể xác trong Bí tích. Làm sao Người có thể được cho là rời khỏi thế gian và được nâng lên trời, nếu Người vẫn còn ở mãi trên mặt đất?”.
Lập luận này thật đáng ngạc nhiên vì không có cơ sở Kinh Thánh, và đã khiến tôi suy ngẫm về các hình thức khác nhau về sự hiện diện của Thiên Chúa được mặc khải trong Thánh Kinh. Kết quả, tôi đã xác định được ít nhất 20 ví dụ cụ thể:
I. Sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa
1. Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi.
2. Thiên Chúa có thể và đã hiện diện cách đặc biệt trong không gian trống (ví dụ: Đền Thờ, Lều Hội Ngộ, phía trên Hòm Giao Ước).
3. Thiên Chúa “ở với” các đạo binh chiến thắng của dân Israel (Tl 6,16) và với các vị thánh thiện như Môsê và Giôsuê.
4. Thiên Chúa hiện diện trong các thị kiến huy hoàng như Isaia, Đanien và Thánh Gioan đã mô tả (Is 6,1-7; Đn 7,1-10; Kh 1,12-16).
5. Thiên Chúa hiện diện cách đặc biệt nơi - thậm chí được đồng hóa với - Thiên sứ của Thiên Chúa.
6. Thiên Chúa ngự trong tâm hồn các tín hữu. Kinh thánh nói điều này theo cách hoán vị cho cả Ba Ngôi Vị của Ba Ngôi chí Thánh. Một lần nữa, Thiên Chúa “ở trong” vật chất (là chúng ta).
7. Chúng ta không ngừng được biến đổi để hiệp nhất với Thiên Chúa theo nghĩa thần hóa (theosis/ divinization) (2Cr 3,18; Ep 4,15; 2Pr 1,4).
8. Các môn đệ của Chúa Giêsu “ở trong Đức Kitô”.
9. Các môn đệ “ở trong Chúa Cha” (1Ga 2,24), và cũng là ở “trong Chúa Kitô” (Cv 17,18; 1Ga 2,5; 3,6).
10. Các môn đệ “ở trong Chúa Thánh Thần” hoặc “trong Thần Khí”.
II. Sự hiện diện thần linh có yếu tố vật chất toàn phần hoặc một phần
11. Thiên Chúa có thể và đã hiện diện cách đặc biệt trong vật chất (cột mây, cột lửa, bụi gai cháy).
12. Thiên Chúa hiện diện trong các cuộc thần hiện (theophanies) trong Cựu Ước.
13. Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong Đức Giêsu (khoảng 33 năm sống trần thế).
14. Chúa Giêsu hiện diện trong 40 ngày sau khi phục sinh, với thân xác vinh hiển có thể đi xuyên những bức tường (Ga 20,19.26).
15. Chúa Giêsu sẽ hiện diện cách thể lý trong trạng thái vinh quang sau Thăng Thiên khi Ngài Tái Lâm.
16. Chúa Giêsu hiện diện cách bí tích (một hình thức thể lý siêu nhiên) trong Bí tích Thánh Thể.
17. Chúng ta được kết hiệp cách mầu nhiệm trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu qua bí tích Thánh Tẩy (Rm 6,3-8).
18. Chúng ta được kết hợp cách sâu xa và liên lỉ với cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu (2Cr 4,10; Pl 3,10; Gl 2,20).
19. Thánh Phaolô nói rằng : “Tôi mang lấy vào thân thể những gì còn thiếu nơi cuộc khổ nạn của Đức Kitô” (Cl 1,24) và “trên thân thể tôi mang dấu tích của Chúa Giêsu” (Gl 6,17).
20. Chúa Giêsu kết hợp mật thiết với Hội Thánh, Thân Thể của Đức Kitô, đến độ đã nói với Phaolô rằng đang khi ông bắt bớ Ngài là ông đang bắt bớ Hội thánh (Cv 9,4-5; 22,7-8; 26,14-15).
Turretin đã phủ nhận những điều kỳ diệu và siêu nhiên bằng nhiều cách, và định kiến này đã khiến ông bác bỏ những chủ đề rõ ràng trong Kinh Thánh. Ông viết tiếp trong tác phẩm của mình: “Sự kết hợp giữa chúng ta và Đức Kitô không bao giờ được nói là sự kết hợp thân xác, nhưng là hết hợp thiêng liêng và mầu nhiệm, là điều chỉ có thể thực hiện bởi Thần Khí và đức tin” (x. 1Cr 6,17; Ep 3,17).
Điều này là không đúng, vì các điểm từ 17 đến 20 ở trên (đặc biệt là số 19) cho thấy sự kết hiệp mầu nhiệm nhưng theo khía cạnh thể xác thật sự của chúng ta với Đức Giêsu. Thần học thường đòi hỏi sự phân biệt tinh tế. Vì Turretin quá thù địch với Công giáo, ông trở thành “tù nhân” của chính định kiến mình, dẫn đến các giả định sai lầm và từ đó rút ra kết luận lệch lạc. Do đó, ông chỉ coi các điểm 13 và 15 trong các kiểu hiện diện trên là có liên quan đến cuộc thảo luận này và bỏ qua những điểm khác. Trước đó, Turretin đã viết: “Kinh Thánh thường xuyên trình bày cho chúng ta về sự hiệp thông với Mình và Máu Đức Kitô như nền tảng và nguồn mạch của mọi ơn lành của Ngài…”
Chẳng phải là điều lạ lùng và đáng buồn sao, khi Turretin có thể dễ dàng và thường xuyên nói đến ‘Mình và Máu Đức Kitô’, trong khi đồng thời lại phủ nhận rằng Thánh Thể thực sự là Mình và Máu ấy?
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ không chết... Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống … Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình... Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời... Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống... Kẻ ăn tôi sẽ sống nhờ tôi... Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (x Ga 6,50-58).
Sự sai lạc thần học và lạc giáo luôn làm biến đổi ý nghĩa rõ ràng của các từ ngữ. Cứ như thể Thiên Chúa — khi lường trước những giáo lý sai lạc về Thánh Thể xuất hiện vào thập niên 1520 — đã làm cho sự thật của vấn đề trở nên quá rõ ràng trong Kinh Thánh đến nỗi không ai không có thành kiến trước hoặc sự dạy dỗ trái ngược liên tục lại có thể phủ nhận được. Nhưng họ vẫn phủ nhận... và vì vậy, nhiệm vụ biện giáo và giải thích của chúng ta vẫn còn đó.
G. Võ Tá Hoàng