Đức Maria, Hòm bia của Giao ước mới


Đức Maria, Hòm bia của Giao ước mới


 


Tại sao người Công giáo gọi Đức Maria là Hòm bia của Giao ước mới? Việc trả lời câu hỏi này sẽ đưa chúng ta trải qua một hành trình đầy cảm xúc xuyên suốt Cựu ước và Tân ước.

Chẳng hạn, thánh Luca đã đan kết một số điều tuyệt vời vào trong Tin mừng của ngài mà chỉ một người Do Thái am tường mới hiểu được – một người Do Thái biết Kinh thánh Do Thái và có đôi mắt để nhìn, đôi tai để lắng nghe. Một trong những điều mà người ấy có thể nhận ra chính là dự hình luận.

Tất cả chúng ta đều biết rằng Cựu ước chứa đầy những câu chuyện, con người và sự kiện lịch sử. Một dự hình là một nhân vật, sự vật hoặc sự kiện trong Cựu ước báo trước cho việc gì đó trong Tân ước. Nó giống như một sự nếm trải trước hay gợi ý cho một việc gì sẽ được hoàn thành hoặc được hiện thực hóa. Các dự hình giống như những bức họa trở nên sống động theo một cách thức mới mẽ và thú vị khi được nhìn theo nhãn quan mặc khải của Đức Kitô. Thánh Augustinô từng nói: “Tân Ước ẩn giấu trong Cựu Ước. Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước” (Giáo lý cho người chưa được học 4,8).

Ý tưởng về nhân hình luận không hề mới. Thánh Phaolô nói rằng Ađam là tiên trưng của Đấng sẽ đến – tức Đức Kitô (Rm 5,14). Các Kitô hữu sơ thời hiểu rằng Cựu ước chứa đầy những kiểu mẫu hay hình ảnh đã được hoàn thành hay nên hiện thực trong Tân ước.

Dưới đây là một số minh họa thêm cho dự hình luận trong Kinh thánh:

· Thánh Phêrô dùng hình ảnh tàu Noê như một tiên trưng cho phép rửa Kitô giáo (1Pr 3,18-22).

· Thánh Phaolô giải thích rằng việc cắt bì báo trước cho phép rửa Kitô giáo (Cl 2,11-12).

· Đức Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng như một tiên trưng cho việc Ngài chịu Khổ hình thập tự (Ga 3,14; x. Ds 21,8-9).

· Chiên Vượt qua diễn tả trước hy tế của Đức Kitô (1 Cr 5,7).

· Thánh Phaolô cho biết Abraham “tính rằng: Thiên Chúa quyền phép đủ để làm cho người chết sống lại; do đó ông đã được lại con ông, sự đã nên như triệu báo” (Hr 11,19).

Hòm bia của Giao ước cũ

Thiên Chúa yêu thương dân Người và muốn gần gũi với họ. Người chọn cách làm theo một đường lối hết sức đặc biệt. Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy, “Nhờ các vị mục tử, đặc biệt là vua Đavít, và các ngôn sứ hướng dẫn, kinh nguyện của Dân Chúa được triển nở dưới bóng nhà Chúa, lúc đầu là Khám [Hòm bia] Giao ước và sau này là Đền Thờ” (GLHTCG 2594). Thiên Chúa hướng dẫn Môsê dựng một Nhà tạm được phủ bằng những tấm màn dày (x. Xh 25-27). Bên trong Nhà tạm, Môsê đặt một chiếc hòm bọc vàng từ trong ra ngoài. Bên trong Hòm bia Giao ước lại được đặt một bình vàng chứa manna, cây gậy đâm chồi nẩy lộc của Aharon, và các tấm bia Giao ước (x. Hr 9,4).

Khi hòm bia đã hoàn thành, một đám mây vinh quang của Đức Chúa (Vinh quang Shekinah[1]) che phủ Trướng Tao phùng, và vinh quang của Đức Chúa đầy tràn Nhà tạm (Xh 40,34-35; Ds 9,18.22). Động từ “che phủ” hay “rợp bóng” và ẩn dụ về một đám mây được sử dụng trong Kinh thánh để diễn tả sự hiện diện và vinh quang của Thiên Chúa. Giáo lý Hội thánh Công giáo giải thích:

Trong các cuộc thần hiện thời Cựu ước, áng mây khi chói sáng, khi mờ tối, vừa mặc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người - như lúc Môsê trên núi Sinai, trong lều Hội Ngộ và suốt cuộc hành trình trong hoang địa; với Salômôn dịp cung hiến Đền Thờ. Những hình bóng này được Đức Kitô thể hiện trong Thánh Thần. Chính Thánh Thần ngự xuống trên Trinh Nữ Maria và "rợp bóng" trên Người, để Người thụ thai và hạ sinh Đức Giêsu. Trên núi Hiển Dung, chính Thánh Thần đến trong "đám mây bao phủ" Đức Giêsu, Môsê và Êlia, Phêrô, Giacôbê và Gioan, và "từ đám mây có tiếng phán rằng : "Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người". Cuối cùng, cũng chính đám mây này "che khuất Đức Giêsu" ngày Thăng Thiên và sẽ mặc khải Người là Con Người trong vinh quang ngày tái lâm. Vinh quang của Đức Chúa “rợp bóng” trên hòm bia và tràn ngập nhà tạm (GLHTCG 697).

Thật dễ bỏ sót tính song đối giữa việc Chúa Thánh Thần rợp bóng trên hòm bia và Chúa Thánh Thần rợp bóng trên Đức Maria, giữa Hòm bia của Giao ước cũ như là nơi Thiên Chúa ngự và Đức Maria như là nơi ngự mới của Thiên Chúa.

Thiên Chúa muốn mọi chi tiết của hòm bia phải chính xác cách đặc biệt (Xh 25-30). Bởi vì đó là nơi chính Thiên Chúa sẽ ngự (Xh 25,8). Thiên Chúa muốn những lời của Người – được khắc trên đá – được lưu giữ trong một vật chứa hoàn hảo bọc vàng ròng từ trong ra ngoài. Hẳn nhiên Người cũng muốn Ngôi Lời của Người – Đức Giêsu – ngự ở một nơi thật hoàn hảo! Nếu người Con Một chọn cư ngụ nơi cung lòng một cô gái nhân loại, thì tại sao Người không làm cho cô ấy nên vô tỳ tích cơ chứ?

Đức Trinh nữ Maria là thánh điện sống động của Ngôi Lời Thiên Chúa, là Hòm bia của Giao ước mới và vĩnh cửu. Trên thực tế, trình thuật thiên thần truyền tin cho Đức Maria của thánh Luca đã kết hợp cách độc đáo những hình ảnh về căn lều dành cho việc hội ngộ với Thiên Chúa trên núi Sinai và đền thờ trên núi Sion. Cũng như đám mây che phủ dân Chúa để dẫn họ đi trong sa mạc (x. Ds 10,34; Đnl 33,12; Tv 91,4) và cũng như chính đám mây ấy, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa cách mầu nhiệm ở giữa dân Israel, bay lượn trên Hòm bia Giao ước (x. Xh 40,35), giờ đây bóng Đấng Tối Cao cũng bao trùm và thẩm thấu nhà tạm của Giao ước mới là cung lòng Đức Maria (x. Lc 1,35) (Hội đồng Giáo hoàng về Chăm sóc Mục vụ cho Di dân và Lữ hành, Đền thờ: Ký ức, Sự hiện diện và Lời tiên báo về Thiên Chúa Hằng sống).

Vua Đavít và Êlisabét

Thánh Luca cũng đan kết những song đối thêm vào câu chuyện về Đức Maria – những hình ảnh tiên trưng dễ bị bỏ qua nếu người ta không quen thuộc với Cựu ước. Sau khi Môsê qua đời, Giôsuê đưa dân Israel băng qua sông Giođan để tiến vào Đất Hứa. Giôsuê cho đặt Hòm bia Giao ước tại Shilô, nơi Hòm bia ở lại trong hơn 200 năm. Ngày nọ, khi dân Israel bại trận trước quân Philitinh, dân nhanh chóng lấy hòm bia và đưa ra tiền tuyến. Quân Philitinh đoạt được hòm bia, nhưng hòm bia lại gây những rắc rối nghiêm trọng cho họ, vậy là họ trả hòm bia lại cho dân Israel (1Sm 5,1-6,12).

Đavít là người đã đi rước hòm bia (2Sm 6,1-2). Sau khi một người đàn ông tên Uzzah đột tử khi chạm vào, Đavít đã than thở mà rằng: “Hòm bia của Đức Chúa đến với tôi thế nào được?”. Ông đã bỏ lại hòm bia tại một miền đồi núi xứ Giuđa chừng ba tháng. Chúng ta cũng biết, chính Đavít đã nhảy múa trước hòm bia và mọi người đã reo hò vui sướng. Nhà Obed-Eđôm, nơi đặt hòm bia, được chúc phúc, vậy nên Đavít liền rước hòm bia về Giêrusalem (2Sm 6,9-14).

So sánh chuyện Đavít và hòm bia với trình thuật của Luca về cuộc Thăm viếng:

Trong những ngày ấy, chỗi dậy, Maria đon đả ra đi lên miền sơn cước, đến một thành xứ Giuđa: bà vào nhà Dacaria và chào Êlisabét. Và xảy ra là thoạt Êlisabét nghe lời Maria chào, thì hài nhi nhảy mừng trong dạ mẹ; và Êlisabét được đầy Thánh thần, mà thốt lên một tiếng kêu lớn và nói: "Trong nữ giới, có người là diễm phúc! Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng người! Và bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi? Vì này thoạt tiếng người chào vừa đến tai tôi, thì hài nhi trong dạ tôi nhảy mừng. Phúc cho người, là kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho người!" (Lc 1,39-45), (bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn).

· Đức Maria chỗi dậy và đi đến một miền đồi núi xứ Giuđa. Tôi đã đến cả Ein Kerem (nơi Êlisabét từng sống) và Abu Ghosh (nơi đặt hòm bia), và hai địa danh này chỉ cách nhau một quãng đi bộ ngắn. Đức Maria và hòm bia, cả hai đều ở trên một hành trình đến cùng  một vùng đồi núi xứ Giuđa.

· Đavít từng hân hoan khi thấy hòm bia và từng nói: “Hòm bia của Đức Chúa đến với tôi thế nào được?”. Êlisabét cũng dùng những lời lẽ rất giống vậy: “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi?”. Luca đang nói cho chúng ta điều gì đó – khi lôi kéo tâm trí chúng ta trở lại với Cựu ước, cho chúng ta thấy một sự song đối.

· Khi Đavít đến gần hòm bia, ông reo hò và nhảy múa trước hòm bia. Ông thắt áo bào trúc bâu, một thứ trang phục dành cho tư tế. Khi Đức Maria, Hòm bia của Giao ước mới, đến gần Êlisabét, thì Gioan Tẩy giả đã nhảy mừng trong dạ mẹ mình – Gioan xuất thân từ dòng dõi tư tế Aharon. Cả Đavít và Gioan Tẩy giả đều nhảy mừng trước sự hiện diện của hòm bia. Hòm bia của Giao ước cũ đã ở lại nhà Obed-Eđôm độ ba tháng, và Mẹ Maria cũng ở lại nhà Êlisabét độ ba tháng. Nơi hòm bia ngụ lại độ ba tháng đã được chúc phúc, và chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi của Luca, Êlisabét đã sử dụng từ được chúc phúc đến ba lần. Gia đình bà dĩ nhiên là đã được chúc phúc nhờ sự hiện diện của hòm bia và Đức Chúa ở bên trong.

· Khi hòm bia Cựu ước xuất hiện – cũng như khi Đức Maria xuất hiện – cả hai đều được chào đón bằng sự reo hò hân hoan. Hạn từ diễn tả tiếng kêu chào mừng của Êlisabét [ἀνεφώνησεν] là một từ Hy Lạp hiếm gặp, được sử dụng khi đề cập đến các nghi lễ phụng tự trong Cựu ước, những nghi lễ có tâm điểm xoay quanh hòm bia và việc thờ phượng (x. Chú giải thuật từ Kinh thánh, 67). Hạn từ này sẽ đánh động tâm trí mọi người Do Thái hiểu biết.

· Hòm bia quay trở lại nhà mình và được đưa đến Giêrusalem, nơi sự hiện diện và vinh quang Thiên Chúa được tỏ lộ trong đền thờ (2Sm 6,12; 1V 8,9-11). Đức Maria trở về nhà và rốt cuộc cũng lên Giêrusalem, nơi Mẹ dâng lên vị Thiên Chúa nhập thể trong đền thờ (Lc 1,56; 2,21-22).

Rõ ràng là thánh Luca đã dùng dự hình luận để tiết lộ điều gì đó về vị thế của Đức Maria trong lịch sử cứu độ. Nơi Hòm bia của Giao ước cũ, Thiên Chúa đến với dân Người bằng sự hiện diện thiêng liêng, còn nơi Đức Maria, Hòm bia của Giao ước mới, Thiên Chúa đến cư ngụ với dân người không chỉ bằng cách thế thiêng liêng mà còn cả thể lý, trong cung lòng của một cô gái Do Thái đã được chuẩn bị cách đặc biệt.

Cựu ước cho biết rằng có một vật phẩm được đặt bên trong Hòm bia của Giao ước cũ trong thời còn ở vùng núi Sinai hoang vu: Thiên Chúa sai Môsê đặt hai bảng đá có khắc Mười điều răn vào trong hòm bia (Đnl 10,3-5). Do Thái 9,4 thêm thông tin về hai vật phẩm bổ sung được đặt trong Hòm bia: “một bình vàng đựng manna, và cây gậy đâm chồi nảy lộc của Aharon”. Hãy chú ý những song đối đáng kinh ngạc: Trong hòm bia là luật pháp của Thiên Chúa được khắc trên đá; trong cung lòng Đức Maria là Ngôi Lời của Thiên Chúa thành nhục thể. Trong hòm bia là một bình đựng manna, là bánh rơi xuống từ trời hầu giúp dân Chúa sống sót trong hành trình qua hoang mạc; trong cung lòng Đức Maria là Bánh Sự sống đến từ trời hầu đem lại sự sống đời đời. Trong hòm bia là cây gậy của Aharon, sự chứng thực cho chức tư tế đích thật; trong cung lòng Đức Maria là một tư tế đích thật. Vào thế kỷ thứ ba, thánh Gregory Wonder Worker từng nói rằng Đức Maria thật là một hòm bia – “bằng vàng cả trong lẫn ngoài, và Mẹ đã đón nhận trong cung lòng mình hết thảy mọi kho tàng của thánh điện”.

Khi Gioan tông đồ bị lưu đày trên một hòn đảo xứ Patmos, ngài đã viết ra điều khiến cho bất kỳ người Do Thái nào ở thế kỷ thứ nhất cũng phải kích động. Hòm bia của Giao ước cũ đã bị mất từ nhiều thế kỷ - không ai nhìn thấy suốt 600 năm qua. Nhưng trong Khải huyền 11,19, thánh Gioan đưa ra một tuyên bố đầy kinh ngạc: “Và điện thờ của Thiên Chúa trên trời đã mở, và Hòm bia Giao ước hiện ra trong điện thờ của Người”.

Chương 11 kết thúc ở câu này và chương 12 bắt đầu. Nhưng Kinh thánh đã không được viết theo kiểu phân chương – việc này chỉ được bổ sung vào thế kỷ 12. Khi thánh Gioan viết những lời này, không hề có sự phân chia giữa chương 11 và 12, nhưng là một trình thuật liên tục.

Thánh Gioan nói gì ngay sau khi nhìn thấy Hòm bia Giao ước trên trời? “Một dấu lạ vĩ đại hiện ra trên trời; một Người nữ có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng, và đầu có triều thiên mười hai sao; Người nữ đang thai nghén" (Kh 12,1-2). Người nữ là Đức Maria, Hòm bia Giao ước, được Thiên Chúa mặc khải cho thánh Gioan. Người được nhận ra là đang mang thai Đấng sẽ lấy trượng sắt mà chăn dắt các dân hết thảy (Kh 12,5). Đức Maria được nhìn nhận như là hòm bia và là nữ hoàng.

Tuy nhiên, đoạn văn này có thực sự quy chiếu về Đức Maria? Một số cho rằng người nữ này đại diện cho Israel hoặc Giáo hội, hẳn là vậy. Việc thánh Gioan sử dụng phong phú các hình ảnh tượng trưng thì ai cũng biết, nhưng chính Kinh thánh đã xác định người nữ đó là Đức Maria cách rõ ràng. Kinh thánh bắt đầu với một người nam (Ađam), một người nữ (Evà), và một con rắn (ác quỷ) – và nó cũng kết thúc với một người nam (Đức Giêsu, Ađam cánh chung [1Cr 15,45]), một người nữ (Đức Maria, Evà mới [Rv 11,19-12,2]), và một con rắn (ác quỷ xưa). Tất thảy đã được tiên báo trong Sáng thế 3,15.

Đức Hồng y John Henry Newman đã viết về đoạn văn Khải huyền này như sau:

Điều tôi muốn khẳng định là vị Thánh Tông đồ sẽ không dùng hình ảnh đặc thù này để nói về Giáo hội, nếu đây không phải là Đức Trinh nữ Maria, người được vinh thăng và là đối tượng sùng kính của mọi tín hữu. Không ai nghi ngờ việc “người con trai” được nhắc tới là một ám chỉ về Chúa chúng ta; vậy tại sao “Người nữ” lại không là một sự ám chỉ về thân mẫu của Ngài? (Về Đức Trinh Nữ Maria).

Cuối chương này, chúng ta đọc thấy ác quỷ lùng bắt những người còn lại trong dòng dõi bà – các Kitô hữu – điều này chắc chắn cho thấy, bằng cách này hay cách khác, Đức Maria là mẹ của Giáo hội (Kh 12,17).

Thậm chí nếu ai đó bác bỏ giáo huấn Công giáo về Đức Maria, người đó vẫn không thể phủ nhận việc các tín hữu Công giáo có những nền tảng Kinh thánh cho vấn đề này. Và đây cũng là một giáo huấn được các Kitô hữu truyền lại từ ngàn xưa. Dưới đây là một số trích dẫn tiêu biểu từ Giáo hội thời sơ khai – một số được viết ra rõ ràng trước cả khi các sách Tân ước chính thức được san định thành quy điển:

Thánh Athanasiô thành Alexandria (khoảng 296-373) là người bảo vệ nổi bật cho thần tính của Đức Kitô chống lại các lạc giáo của thế kỷ thứ hai. Ngài viết: “Hỡi Đức Nữ trinh tôn quý, quả thật ngài vĩ đại hơn mọi sự vĩ đại. Ai có thể cao cả sánh bằng ngài, hỡi nơi Ngôi Lời Thiên Chúa ngự giá? Giữa muôn vàn thụ tạo, con nào biết sánh ngài với ai, hỡi Đức Nữ trinh? Ngài lớn lao hơn tất cả chúng, hỡi [Hòm bia] Giao ước, được che phủ bằng sự khiết trinh thay vì vàng! Ngài là hòm bia, nơi có thể tìm thấy chiếc bình vàng chứa manna thật, là một thân xác mà thần tính cư ngụ bên trong” (Bài giảng được in trên giấy cói ở Turin).

Thánh Gregory Wonder Worker (khoảng 213-270) viết: “Chúng ta hãy ngân lên nhạc khúc đã được truyền dạy qua cây hạc cầm được thần hứng của Đavít, mà tung hô rằng, ‘Lạy Đức Chúa, xin trỗi dậy, để cùng với hòm bia của thánh điện Ngài, ngự về chốn nghỉ ngơi’. Vì chưng Đức Thánh Nữ trinh là hòm bia đích thật, được bọc vàng cả trong lẫn ngoài, hòm bia đã lãnh nhận toàn bộ kho tàng của thánh điện” (Bài giảng lễ Truyền tin cho Đức Thánh Trinh nữ Maria).

Giáo lý Hội thánh Công giáo vọng lại những lời đã có từ những thế kỷ đầu tiên: “Vì chính Đức Chúa đã chọn Mẹ làm nơi cư ngụ, nên Đức Maria là hiện thân của thiếu nữ Sion, là Hòm bia Giao ước, là nơi vinh quang của Đức Chúa ngự trị. Mẹ là ‘nơi Thiên Chúa ở cùng nhân loại’” (GLHTCG 2676).

Các Kitô hữu sơ thời đã nói điều tương tự như Giáo hội Công giáo ngày nay dạy về Đức Maria, bao gồm cả việc Mẹ là Hòm bia của Giao ước mới.

 
Bảng đối chiếu
Đức Maria, Hòm bia được mặc khải trong trình thuật Thăm viếng bà Êlisabét

 
Hộp vàng: Hòm bia của Giao ước cũ Đức Maria: Hòm bia của Giao ước mới
Hòm bia đến với nhà Obed-Eđôm ở một vùng đồi núi xứ Giuđa (2Sm 6,1-11). Đức Maria đến với nhà Êlisabét ở một vùng đồi núi xứ Giuđa (Lc 1,39).
Đavít ăn mặc trang trọng như một tư tế và nhảy múa trước hòm bia (2Sm 6,14). Gioan Tẩy giả - thuộc dòng dõi tư tế - nhảy mừng trong lòng mẹ khi Đức Maria đến gần (Lc 1,41).
Đavít hỏi: “Hòm bia của Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2Sm 6,9). Êlisabét hỏi, “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi?” (Lc 1,43).
Đavít hò reo trước sự hiện diện của hòm bia (2Sm 6,15). Êlisabét “thốt lên một tiếng kêu lớn” trước sự hiện diện của Đức Maria (Lc 1,42).
Hòm bia ở lại nhà Obed-Eđôm độ ba tháng (2Sm 6,11). Đức Maria ở lại nhà Êlisabét độ ba tháng (Lc 1,56).
Nhà  Obed-Eđôm được chúc phúc nhờ sự hiện diện của hòm bia (2Sm 6,11). Ba lần sử dụng từ “được chúc phúc”, chắc chắn nhà Êlisabét đã được Thiên Chúa chúc phúc (Lc 1, 39-45).
Hòm bia trở về nhà và được đưa đến Giêrusalem, nơi mà sự hiện diện và vinh quang Thiên Chúa được tỏ lộ trong đền thờ (2Sm 6,12; 1V 8,9-11). Đức Maria trở về nhà và rốt cuộc cũng lên Giêrusalem, nơi Mẹ dâng vị Thiên Chúa nhập thể trong đền thờ (Lc 1,56; 2,21-22).
 
Đức Maria như Hòm bia được mặc khải bởi các vật phẩm chứa bên trong
 
Bên trong Hòm bia của Giao ước cũ Bên trong Đức Maria, Hòm bia của Giao ước mới
Hai tấm bảng đá chép lại lề luật – lời của Thiên Chúa được khắc trên đá. Thân thể Đức Giêsu Kitô – lời của Thiên Chúa mặc xác phàm.
Chiếc bình chứa đầy manna từ sa mạc – thứ bánh thần diệu rơi xuống từ trời. Cung lòng dựng dục Đức Giêsu, bánh sự sống từ trời xuống (Ga 6,41).
Cây gậy đâm chổi nẩy lộc của Aharon để minh chứng và bảo vệ cho vị thượng tế thật sự. Vị Thượng Tế đích thật và vĩnh cửu.
 
Grêgorio Võ Trần Nhựt chuyển ngữ 

[1] Shekinah: Thuật ngữ do các Rabbi dùng để nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người, cụ thể là sự biểu lộ vinh quang Thiên Chúa trong đền thờ (1 V 8,11 ; 2 Sb 7,1), hoặc sự hiện ra trong đám mây (Xh 14,19).
Mới hơn Cũ hơn