Suy niệm mỗi ngày, Tuần III Mùa vọng

SUY NIỆM MỖI NGÀY MÙA VỌNG

TUẦN III - 23/12





THỨ HAI – TUẦN III MÙA VỌNG

Ds 24,2-7; Mt 21,23-27

✠ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mátthêu

Khi ấy, Đức Giêsu vào Đền Thờ và đang giảng dạy, thì các thượng tế và kỳ mục trong dân đến hỏi Người rằng: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?”

Đức Giêsu đáp lại: “Tôi cũng xin hỏi các ông một điều; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Phép rửa của ông Gioan bởi đâu mà có? Bởi Trời hay bởi người ta?”

Họ liền suy nghĩ với nhau: “Nếu mình nói: ‘Bởi Trời’, thì Người sẽ vặn lại: ‘Vậy sao các ông không tin ông ấy?’ Còn nếu mình nói: ‘Bởi người ta’, thì mình sợ dân chúng, vì ai cũng coi Gioan là ngôn sứ.”

Vì thế, họ trả lời Đức Giêsu: “Chúng tôi không biết.” Người cũng nói với họ: “Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”

Suy niệm

Lời Chúa hôm nay đặt Balaam một bên và các thượng tế, kỳ lão một bên như hai mẫu người hoàn toàn trái ngược nhau. Balaam là một thầy bói thuộc dân ngoại, được người ngoại cậy nhờ trong những việc khẩn cầu, chúc lành hay chúc dữ. Tuy không thuộc dân Israel, nhưng ông lại được chính Gia-vê tác động, soi sáng, để tin nhận Gia-vê và nói theo điều Gia-vê muốn. Thay vì chúc dữ, ông đã chúc lành cho Israel, một dân mới xuất hành từ Ai Cập, đang tiến bước trong hành trình lịch sử và chiến thắng các bộ lạc họ gặp trên đường. Balaam đã tuyên sấm rằng: một ngôi sao sẽ xuất hiện từ Gia-cóp và một phủ việt sẽ trỗi dậy từ Israel. Những lời sấm ấy cho thấy ông là người đã được nhìn thấy điều bí nhiệm mà Gia-vê đã an bài cho tương lai của dân Người.

Trái ngược hẳn với Balaam là hình ảnh các thượng tế và kỳ lão trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ là những người thuộc về dân Israel, lại là hàng lãnh đạo tôn giáo, có trách nhiệm hướng dẫn dân chúng, giảng dạy Lề Luật và giúp dân nhận ra hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử. Thế nhưng, khi đối diện với Chúa Giêsu, họ lại tỏ ra mù lòa. Họ chất vấn Người không phải để tìm chân lý, nhưng để bảo vệ địa vị và quyền lực của mình. Họ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, cũng không nhận ra rằng những việc Người làm chính là những công trình của Thiên Chúa đang thực hiện giữa họ. Lòng kiêu căng, tự mãn và nỗi sợ mất quyền bính đã làm cho họ khép kín trước ánh sáng sự thật, khiến họ không còn khả năng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa.

Qua hai bài đọc hôm nay, Thiên Chúa mời gọi chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hướng nhìn về Chúa Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Người, và tuyên xưng Ngài là Đấng đến từ Chúa Cha để cứu độ trần gian. Ngài chính là ngôi sao từ Gia-cóp mọc lên, là Phủ việt của Israel xuất hiện, như lời sấm ngôn xưa kia của Balaam. Nhờ Ngài, chúng ta được giải thoát khỏi tăm tối, được quy tụ vào Israel mới, là Dân Thiên Chúa được cứu chuộc và thánh hiến.

Đồng thời, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta nhìn lại chính mình và tạ ơn Chúa vì hồng ân lớn lao là được mở mắt để nhận ra Chúa Giêsu, tin vào Ngài và gắn bó với công trình cứu độ của Ngài. Từ đó, chúng ta được thôi thúc cầu nguyện cho những anh chị em còn sống trong bóng tối của sự nghi ngờ, cứng tin hoặc chưa nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Thực tế cho thấy, ngay cả hôm nay, vẫn có những người vì thành kiến, vì lợi ích cá nhân hay vì sợ hãi mà bóp méo sự thật về con người và sứ mạng của Chúa Giêsu, tìm cách hạ thấp lời giảng dạy và các việc làm của Ngài. Thái độ ấy không chỉ làm tổn thương Giáo Hội, mà còn tự khép mình trước ân sủng cứu độ quý giá mà Thiên Chúa muốn ban cho hết mọi người.

Trong khi hướng về ngày Chúa đến để hoàn tất công trình cứu độ của Người nơi lịch sử và nơi mỗi chúng ta, theo tinh thần Mùa Vọng, chúng ta được mời gọi khiêm tốn xin Chúa tiếp tục mở mắt tâm hồn mình. Xin Người dạy chúng ta biết phân định đường lối của Người giữa muôn vàn tiếng nói của thế gian, và giúp chúng ta can đảm bước đi mỗi ngày trong ánh sáng của chân lý và tình yêu.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa là Ngôi Sao sáng đã mọc lên để dẫn đưa nhân loại ra khỏi bóng tối.
Xin mở mắt đức tin cho chúng con,
để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện và hoạt động trong đời sống hằng ngày.
Xin giải thoát chúng con khỏi lòng kiêu căng, sợ hãi và tự mãn,
để chúng con biết khiêm tốn lắng nghe, tin nhận và bước theo Chúa.
Nguyện xin ánh sáng của Chúa chiếu soi tâm hồn mọi người,
để thế giới hôm nay nhận ra nơi Chúa nguồn ơn cứu độ,
và cùng nhau tiến bước trong niềm hy vọng đón chờ ngày Chúa quang lâm.
Amen.



THỨ BA – TUẦN III MÙA VỌNG

Xp 3,1-2.9-13; Mt 21,28-32

✠ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mát-thêu

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ lão trong dân rằng:

“Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông đến nói với người con thứ nhất: ‘Con ơi, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.’ Người con ấy trả lời: ‘Con không muốn’, nhưng sau đó hối hận và đã đi. Ông đến nói với người con thứ hai cũng như vậy. Người này đáp: ‘Thưa cha, vâng’, nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã làm theo ý người cha?”

Họ trả lời: “Người thứ nhất.”

Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông mà các ông không tin; còn những người thu thuế và gái điếm thì lại tin. Phần các ông, dù đã thấy vậy, cũng không hối hận mà tin ông Gioan.”

Suy niệm

Lời Chúa Giêsu chê trách các thượng tế và kỳ lão trong dân Do Thái lập tức khiến chúng ta nghĩ đến tội lỗi của nhóm người ấy, và rộng hơn, đến tội lỗi của chính Dân Chọn trong suốt dòng lịch sử. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy họ là một dân cứng cổ, nhiều lần phản bội Thiên Chúa. Hai tội căn bản luôn lặp lại nơi họ là: thiếu lòng tin vào Thiên Chúa, quay lưng lại với Người; và thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, nhưng thiếu chiều sâu nội tâm và việc làm cụ thể minh chứng cho lòng tin ấy.

Sau khi vào Đất Hứa, đời sống của họ dần ổn định: có nhà cửa, ruộng đất, có tổ chức quốc gia, xã hội, có vua quan và cơ cấu quyền bính. Thế nhưng, thay vì biết ơn Thiên Chúa và chu toàn sứ mạng làm Dân được tuyển chọn để cộng tác với Người trong công trình cứu độ, họ lại sa vào phản bội. Từ vua chúa cho đến dân thường, họ bị lây nhiễm thói xấu của các dân chung quanh, chạy theo ngẫu tượng. Như lời ngôn sứ Xô-phô-ni-a mô tả: “Họ là thành phần phản nghịch và ô uế, không nghe lời Thiên Chúa, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình…” Chính vì tội lỗi ấy, Thiên Chúa đã để họ mất nước, phải chịu cảnh lưu đày đau thương.

Tuy nhiên, tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ cạn. Qua các ngôn sứ, Người không ngừng hứa tha thứ và canh tân. Ngay cả khi Dân Chọn chưa kịp trở về, Thiên Chúa đã hứa duy trì một Số Sót trung thành, thanh tẩy toàn dân, ban cho họ môi miệng trong sạch, gây dựng giữa họ một cộng đoàn nghèo hèn, khiêm tốn, biết tín thác vào Danh Người và không làm điều gian ác, gian dối.

Đáng buồn thay, bài học của lưu đày dường như vẫn chưa được khắc sâu. Theo dòng thời gian, tội lỗi lại xuất hiện trong Dân Chọn. Đến thời Chúa Giêsu, nhóm biệt phái, thượng tế và kỳ lão ngày càng rơi vào lối sống đạo giả hình, chiếu lệ. Họ tự nhận mình là giới lãnh đạo tôn giáo, tự hào vì giữ luật, vì uy tín và địa vị, nhưng đời sống của họ lại trống rỗng. Họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn: miệng thưa “vâng” rất đẹp, rất đạo đức, nhưng rốt cuộc lại không làm theo ý cha. Qua đó, Chúa Giêsu khẳng định một chân lý nền tảng: vâng lời đích thực không nằm ở lời nói, nhưng ở hành động.

Ngược lại, những người thu thuế và gái điếm, những kẻ từng sống ngoài lề Lề Luật, khi nghe lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, đã hoán cải thật sự. Họ nhận ra tội lỗi mình và thay đổi đời sống. Trong khi đó, những người tự cho mình là công chính lại không hề sám hối, dù đã tận mắt chứng kiến biết bao con người trở về với Thiên Chúa. Chính vì thế, họ bị tụt lại phía sau trên con đường tiến vào Nước Trời.

Lời Chúa hôm nay vẫn mang tính thời sự cho mỗi người chúng ta. Chúng ta đang sống trong thời gian chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang. Trước mặt Thiên Chúa, điều làm cho con người trở nên đẹp lòng Người không phải là lời nói đạo đức, không phải là hình thức bên ngoài, không phải là địa vị hay những việc làm phô trương, nhưng là việc chân thành thi hành thánh ý Người trong đời sống hằng ngày.

Chúng ta được mời gọi trở nên những con người biết lắng nghe Lời Chúa và kiên trì thực thi Lời ấy. Đừng sống nửa vời, lúc vâng lời, lúc chống đối; lúc giống người con thứ nhất, lúc lại giống người con thứ hai. Đặc biệt, khi tham dự Thánh lễ, chúng ta hãy xin cho mình được nên giống Chúa Giêsu Kitô, Đấng suốt cả cuộc đời chỉ biết vâng phục Chúa Cha, nồng nhiệt thi hành thánh ý Cha, và yêu mến Cha đến cùng, cho đến cái chết trên thập giá. Nhìn lên Chúa Giêsu, chúng ta học được thế nào là vâng lời thật, thế nào là lòng mến đích thực, và từ đó biết không ngừng sám hối, hoán cải và thăng tiến trong đời sống đức tin.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa biết lòng chúng con dễ nói lời tốt đẹp
nhưng lại chậm chạp trong việc thực thi thánh ý Chúa.
Xin ban cho chúng con một con tim khiêm tốn và chân thành,
biết lắng nghe Lời Chúa và can đảm đem Lời ấy ra thực hành.
Xin giải thoát chúng con khỏi lối sống đạo hình thức và giả tạo,
để đời sống chúng con thực sự trở thành lời “xin vâng” sống động
dâng lên Chúa Cha mỗi ngày.
Nguyện xin Chúa biến đổi chúng con,
để khi Chúa đến, chúng con được đứng vào hàng những người
đã làm theo ý Cha và được hưởng niềm vui Nước Trời.
Amen.



NGÀY 17 THÁNG 12

St 49,2.8-10; Mt 1,1-17

✠ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mát-thêu

Gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.

Áp-ra-ham sinh I-xa-ác; I-xa-ác sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông. Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác; Pe-rét sinh Khe-xơ-ron; Khe-xơ-ron sinh Ram; Ram sinh Am-mi-na-đáp; Am-mi-na-đáp sinh Na-khôn; Na-khôn sinh Xan-môn; Xan-môn ăn ở với Ra-kháp sinh Bô-át; Bô-át ăn ở với Rút sinh Ô-vết; Ô-vết sinh Gie-sê; Gie-sê sinh vua Đa-vít.

Vua Đa-vít ăn ở với vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn; Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia; A-vi-gia sinh A-xa; A-xa sinh Giô-sa-phát; Giô-sa-phát sinh Gio-ram; Gio-ram sinh Út-di-gia; Út-di-gia sinh Giô-tham; Giô-tham sinh A-khát; A-khát sinh Khít-ki-gia; Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se; Mơ-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-gia.

Giô-si-gia sinh Giê-khô-ni-a và các anh em ông, vào thời lưu đày tại Ba-by-lon.

Sau thời lưu đày tại Ba-by-lon, Giê-khô-ni-a sinh San-ti-en; San-ti-en sinh Dơ-rúp-ba-ven; Dơ-rúp-ba-ven sinh A-bi-hút; A-bi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do; A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-kim; A-kim sinh Ê-li-hút; Ê-li-hút sinh Ê-la-da; Ê-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giêsu, cũng gọi là Đấng Ki-tô.

Như thế, tính chung lại thì: từ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít là mười bốn đời; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày tại Ba-by-lon là mười bốn đời; và từ thời lưu đày tại Ba-by-lon đến Đức Ki-tô cũng là mười bốn đời.

Suy niệm

Thiên Chúa vẫn yêu thương Dân Người, nhất là những ai trung tín với Người. Lòng yêu thương của Người không mơ hồ, trừu tượng, nhưng rất cụ thể, như bài đọc I hôm nay diễn tả: Người cho họ được nhiều người mến phục; cho kẻ thù vô phương chống lại họ; và nhất là cho vương quyền của họ được tồn tại mãi mãi. Tuy nhiên, tất cả những điều ấy mới chỉ là hình bóng của một tình yêu lớn lao hơn rất nhiều, mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi lịch sử cứu độ. Điều đó được thánh Mát-thêu long trọng công bố trong bài Tin Mừng hôm nay: Con Thiên Chúa, Thiên Chúa thật, đã nhập thể làm người và đã đứng chung trong một gia phả của loài người.

Gia phả không chỉ là danh sách tên gọi khô khan, nhưng là sự xác định mối tương quan huyết thống, là sự liên đới sâu xa về thân phận và số phận. Khi thuộc về một gia phả nào đó, đời sống của mỗi người gắn liền với lịch sử, vinh quang cũng như tội lỗi của dòng tộc ấy. Gia phả của Ápraham và Đavít, dù là dòng tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, lại là một dòng tộc mang nhiều vết nhơ của bất trung, phản bội, thờ ngẫu tượng và quay lưng lại với Thiên Chúa, đến nỗi đã có lúc phải chịu cảnh nước mất nhà tan, lưu đày nơi đất khách quê người.

Thế nhưng, chính trong dòng tộc đầy thương tích ấy, Thiên Chúa đã cho Con Một của Người sinh ra. Khi đặt Đức Giêsu vào gia phả ấy, thánh Mát-thêu muốn nhấn mạnh hai chân lý nền tảng. Trước hết, Thiên Chúa luôn trung thành với lời Người đã hứa, bất chấp sự bất trung của con người. Không một tội lỗi hay phản nghịch nào có thể phá vỡ kế hoạch yêu thương đời đời của Thiên Chúa. Ngôi báu Đa-vít vẫn được duy trì, không phải bằng quyền lực chính trị, nhưng bằng chính Đức Giêsu Kitô, Vua khiêm hạ và chịu đóng đinh.

Đồng thời, khi chấp nhận đứng chung trong gia phả loài người, Đức Giêsu đã trở thành ruột thịt của những người tội lỗi. Ngài mang lấy thân phận mong manh, lịch sử gãy đổ và số phận bất toàn của nhân loại để biến đổi tất cả từ bên trong. Từ nay, vận mệnh của loài người được gắn chặt với vận mệnh của Con Thiên Chúa. Ngài là Con, và trong Ngài, chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa.

Gia phả của Áp-ra-ham khép lại nơi Đức Giêsu Kitô, nhưng đồng thời cũng mở ra một gia phả mới: gia phả của những người tin. Từ nay, bất cứ ai đặt niềm tin nơi Đức Kitô và bước theo Ngài đều được kể là con cháu Áp-ra-ham, là người thừa hưởng lời hứa, là thành phần của Dân Thiên Chúa mới. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, thân phận nhân loại của chúng ta không còn bị giam hãm trong tội lỗi và sự chết, nhưng được nâng lên, được biến đổi và được mời gọi chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa.

Chúng ta được sinh ra trên trần gian này không phải để sống một kiếp người lây lất, đầy lo âu và vô vọng, nhưng để sống đời sống của những người con được Thiên Chúa yêu thương. Đời sống ấy đạt tới viên mãn khi chúng ta để cho Đức Giêsu Kitô sống trong chúng ta và qua chúng ta, để khi kết thúc hành trình dương thế, chúng ta được ở với Ngài muôn đời.

Vì thế, trong Thánh lễ này, chúng ta được mời gọi hiệp thông cách sâu xa với Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương đến cùng, đã chết và sống lại cho chúng ta, và vẫn tiếp tục hiến thân làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta mỗi ngày. Ước gì cuộc đời chúng ta trở thành một phần sống động của gia phả mới ấy, gia phả của những con người được cứu chuộc và được yêu thương.

Lời nguyện 

Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã hạ mình bước vào gia phả tội lỗi của nhân loại
để nâng chúng con lên địa vị con cái Thiên Chúa.
Xin cho chúng con biết sống xứng đáng với ân huệ cao cả ấy,
để đời sống chúng con trở nên chứng tá cho tình yêu trung tín của Chúa.
Xin cho Chúa sống trong chúng con,
để từ nay không còn là chúng con sống,
nhưng là chính Chúa sống trong chúng con.
Amen.


NGÀY 18 THÁNG 12

Gr 23,5-8; Mt 1,18-24

✠ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mát-thêu

“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: Bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng khi ông đang suy nghĩ về điều đó, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông rằng: ‘Này ông Giuse, con cháu vua Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.’

Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: ‘Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel’, nghĩa là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta’.

Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.”

Suy niệm

Giữa lúc dân Israel đang bị tan tác trong cảnh lưu đày ở Babylon, Thiên Chúa đã sai tiên tri Giêrêmia loan báo cho họ một Tin Mừng lớn lao: Người sẽ ban cho họ một vị vua đích thực, không phải thứ vua bù nhìn lệ thuộc ngoại bang, nhưng là một Đấng công chính, khôn ngoan và đầy quyền năng. Vị vua ấy sẽ quy tụ dân tản mác, dẫn đưa họ trở về, tái lập một dân Israel mới, sống trong bình an và công chính. Lời hứa ấy không chỉ là niềm an ủi nhất thời, nhưng là nền tảng của một hy vọng vượt quá biên giới lịch sử, hướng về một tương lai cứu độ phổ quát.

Thánh Mátthêu, trong bài Tin Mừng hôm nay, đã khẳng định rõ ràng: lời hứa ấy được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng mang danh hiệu Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Không phải chỉ là một khẩu hiệu an ủi, nhưng là một thực tại sống động: Thiên Chúa đã bước vào lịch sử loài người, mang lấy thân phận nhân loại, chia sẻ trọn vẹn kiếp sống mong manh của chúng ta.

Ngay từ thuở đầu, Thiên Chúa đã không ngừng ở với dân Người: trong áng mây và cột lửa dẫn đường giữa sa mạc; trong Hòm Bia Giao Ước là dấu chỉ sự hiện diện thánh thiêng; trong các ngôn sứ và những con người được tuyển chọn. Nhưng tất cả những hình thức ấy vẫn còn mang tính biểu tượng. Đến khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã chọn một cách ở cùng sâu xa nhất: trở nên một con người bằng xương bằng thịt, sống giữa loài người, chia sẻ mọi vui buồn, lao nhọc và khổ đau của kiếp nhân sinh. Đó chính là mầu nhiệm Emmanuel.

Tuy nhiên, để mầu nhiệm ấy được thực hiện, Thiên Chúa không hành động đơn phương. Người mời gọi sự cộng tác tự do của con người. Người không áp đặt, nhưng chờ đợi. Và người đầu tiên đáp lại kế hoạch Emmanuel ấy chính là Đức Maria.

Đứng trước một kế hoạch vượt quá mọi dự tính, trái ngược hoàn toàn với những mơ ước rất con người của mình, Đức Maria đã chọn con đường tự hủy: xóa bỏ ý riêng, phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Thiên Chúa. Lời “xin vâng” của Mẹ không chỉ là một câu trả lời nhất thời, mà là sự hiến dâng trọn đời, để Thiên Chúa có thể ở cùng nhân loại qua chính thân xác và cuộc đời của Mẹ.

Kế đến là thánh Giuse. Khi đối diện với mầu nhiệm vượt quá hiểu biết của mình, thánh Giuse đã hoang mang, bối rối, thậm chí sợ hãi. Ngài thấy mình bất xứng trước sự thánh thiện của Thiên Chúa. Nhưng khi được mời gọi cộng tác, ngài đã khiêm tốn đón nhận, sẵn sàng xóa mình để chương trình cứu độ được hoàn tất. Sự vâng phục âm thầm của thánh Giuse đã làm cho gia đình Nadarét trở thành nơi cư ngụ đầu tiên của Đấng Emmanuel.

Chính việc tự hủy của Đức Maria và thánh Giuse đã làm cho tình yêu của các ngài vượt lên trên mọi hình thức chiếm hữu, để trở thành một tình yêu thuần khiết, sung mãn và tràn đầy sự hiện diện của Thiên Chúa. Đấng Emmanuel đã ở giữa các ngài, thánh hóa đời sống gia đình của các ngài và biến nó thành dấu chỉ của tình yêu thiên giới ngay giữa trần gian.

Thế nhưng, sau hơn hai ngàn năm, Đấng Emmanuel vẫn tiếp tục bị khước từ. Nhân loại vẫn đầy dẫy chia rẽ, bạo lực, ích kỷ. Ngay cả trong các gia đình và cộng đoàn Kitô hữu, vẫn còn không ít hờn ghen, bất hòa, khép kín trước nỗi đau của người khác. Vì là tình yêu, Emmanuel không thể cư ngụ nơi những tâm hồn còn chật cứng ích kỷ và tự mãn.

Trong những ngày chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, chúng ta dễ bị cám dỗ lo trang hoàng hang đá, nhà thờ, nhà cửa cho thật đẹp. Nhưng Đấng Emmanuel không cần những ánh đèn rực rỡ hay những hình thức hào nhoáng. Điều Người cần là một tấm lòng biết quên mình: biết sẻ chia cơm áo cho người nghèo, biết cúi xuống nâng đỡ người đau khổ, biết mở lòng trước những tiếng kêu than bị bỏ quên. Đó mới là chỗ trọ đích thực của Thiên Chúa giữa trần gian.

Đấng Emmanuel vẫn đang muốn ở cùng chúng ta, đặc biệt qua Bí tích Thánh Thể mà Người sắp trao ban chính mình cho chúng ta. Nhưng để Người thực sự ở cùng, chúng ta cần dọn trống cõi lòng mình, loại bỏ những ích kỷ, hận thù và khép kín. Chỉ khi đó, chúng ta mới thực sự nên một với Người và nên một với nhau trong Người, để Emmanuel không chỉ là danh xưng, mà là sự sống đang đập nhịp trong lòng nhân loại hôm nay.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu Emmanuel,
Chúa là Thiên Chúa ở cùng chúng con.
Xin cho chúng con biết xóa bỏ mình như Đức Maria và thánh Giuse,
để Chúa có một chỗ trọ trong lòng chúng con.
Xin biến đổi chúng con thành dấu chỉ sống động của tình yêu Chúa
giữa một thế giới còn đầy chia rẽ và khổ đau.
Amen.



NGÀY 19 THÁNG 12

Tl 13,2-7.24-25; Lc 1,5-25

✠ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca

Thời vua Hêrôđê cai trị miền Giuđê, có một tư tế tên là Dacaria, thuộc nhóm Abigia; vợ ông là Êlisabét, cũng thuộc dòng dõi Aharon.

Cả hai đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. Nhưng họ không có con, vì bà Êlisabét hiếm hoi, và cả hai đã cao niên.

Một hôm, khi ông đang làm việc tư tế trước mặt Thiên Chúa theo phiên của nhóm mình, thì theo tục lệ tư tế, ông được rút thăm để vào dâng hương trong đền thờ Chúa. Toàn thể dân chúng đứng cầu nguyện ở bên ngoài trong giờ dâng hương.

Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Dacaria bối rối sợ hãi. Nhưng thiên thần bảo ông: “Đừng sợ, Dacaria, vì lời ông cầu xin đã được nhậm lời. Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hoan hỷ, và nhiều người cũng sẽ vui mừng vì con trẻ ấy ra đời. Vì em sẽ nên cao trọng trước mặt Chúa, sẽ đầy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ, và sẽ đưa nhiều con cái Israel trở về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ.”

Ông Dacaria thưa với thiên thần: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên.”

Thiên thần đáp: “Ta là Gáprien, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa; ta được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng này. Nhưng vì ông không tin lời ta, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời, nên ông sẽ bị câm, không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra.”

Dân chúng chờ đợi ông Dacaria và lấy làm lạ vì ông ở lâu trong đền thờ. Khi ra khỏi đó, ông không nói được với họ, và họ hiểu là ông đã thấy thị kiến trong đền thờ. Còn ông thì chỉ ra hiệu cho họ và vẫn bị câm.

Khi mãn thời gian phục vụ, ông trở về nhà. Sau đó, bà Êlisabét vợ ông thụ thai. Bà ẩn mình năm tháng và nói: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”

Suy niệm

Mỗi người được sinh ra trong trần gian đều mang một vai trò, một nhiệm vụ đặc biệt trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Samson được sinh ra để giải thoát dân Israel khỏi ách thống trị của người Philitinh. Gioan Tẩy Giả được tràn đầy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ để trở thành vị Tiền Hô, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Cả hai đều được sinh ra nhờ sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa, được sinh bởi những bà mẹ son sẻ, và đều được Thánh Thần hướng dẫn, nên đã sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian. Cuộc đời các ngài trở thành dấu chỉ sống động về sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa giữa dân Người.

Thế nhưng, từ khi Chúa Giêsu làm người, Thiên Chúa không còn cần đến những can thiệp “lạ lùng” theo kiểu cũ ấy nữa. Bởi vì nơi mầu nhiệm Nhập Thể, vận mệnh của toàn thể nhân loại đã được biến đổi tận căn: từ thân phận thuộc về trần gian, con người được nâng lên để thuộc về Nước Trời; từ thân phận hư nát, con người được mời gọi bước vào địa vị làm con Thiên Chúa. Khi Con Thiên Chúa mang lấy thân phận phàm nhân, Ngài đã thực sự liên đới với tất cả mọi người. Như các chi thể sống nhờ đầu thế nào, thì từ nay, chúng ta cũng được sống nhờ Ngài như thế. Từ khi Chúa Giêsu giáng sinh và đảm nhận trọn vẹn kiếp sống nhân loại của chúng ta, thì mỗi con người được sinh ra trong trần gian này đều là một “can thiệp đặc biệt” của Thiên Chúa.

Sự can thiệp này còn lớn lao hơn cả việc sinh ra của Samson và Gioan. Samson và Gioan được sinh ra để dọn đường cho Thiên Chúa; còn mỗi Kitô hữu chúng ta được sinh ra để gắn bó với Đức Kitô, nên một với Ngài, và nhờ Ngài được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa. Biến cố Giáng Sinh đã thay đổi toàn bộ cục diện của lịch sử nhân loại: đó là sự can thiệp chung cuộc và dứt khoát của Thiên Chúa. Từ nay, Người không cần những can thiệp độc đáo nơi một vài nhân vật đặc tuyển, bởi vì mỗi người đã trở thành nhân vật đặc tuyển của Người: được nên một với Đức Giêsu, được trở thành hiện thân của Ngài để tiếp tục công trình yêu thương và cứu độ của Ngài giữa thế gian. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới có thể khẳng định: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn Gioan.”

Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống nơi trần gian này không phải để từng ngày tiến dần về cõi chết, nhưng để chúng ta học biết sống như Thiên Chúa, bằng cách yêu thương như Thiên Chúa. Chỉ những ai biết yêu thương như Thiên Chúa mới thực sự là con cái của Người. Ai yêu thương thì không phải chết, vì tình yêu mạnh hơn sự chết; và chỉ khi nào tình yêu lớn hơn cả mạng sống, khi ấy tình yêu mới thực sự chiến thắng sự chết.

Chúng ta được sinh ra để học biết sống như Thiên Chúa. Sống như Thiên Chúa là yêu thương cho đến cùng, là tự hủy chính mình để sống cho người khác, và chỉ tìm thấy hạnh phúc đích thực khi thấy người khác được hạnh phúc. Chúa Giêsu đã tự hủy địa vị Con Thiên Chúa, để sống trọn kiếp phàm nhân của chúng ta; Ngài đã hoàn toàn tự hiến, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta, hầu làm cho chúng ta được trở nên con cái Cha trên trời. Con đường ấy cũng là con đường của chúng ta: con đường tự xóa mình để sống cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Đó là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến tư cách làm con Thiên Chúa, và cũng là cách thế duy nhất để sự hiện hữu của chúng ta trở thành niềm vui và Tin Mừng cho thế giới.

Chúa Giêsu vẫn đang ở giữa chúng ta, vẫn đang thông ban sự sống thần linh cho chúng ta, và vẫn mời gọi chúng ta tham dự vào chính địa vị làm Con của Ngài. Hằng ngày, Ngài vẫn hiến mình cho chúng ta trong Thánh Thể, để chúng ta được nên một với Ngài. Ước gì hôm nay, chúng ta biết sống chính sự sống của Đức Kitô, để niềm vui được làm con Thiên Chúa nơi chúng ta ngày một lan tỏa và trở thành ánh sáng cho tất cả những ai đang sống quanh chúng ta.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng con được sống và sống dồi dào, xin cho chúng con biết tự hủy như Chúa, biết yêu thương cho đến cùng, để đời sống chúng con trở thành Tin Mừng và niềm vui cho anh chị em mình. Amen.



NGÀY 20 THÁNG 12

Is 7,10-14; Lc 1,26-38

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca

Khi ấy, thiên thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít; trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

Thiên thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”

Nghe lời ấy, bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Thiên thần liền nói:

“Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người; Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận.”

Bà Ma-ri-a thưa với thiên thần: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”

Thiên thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”

Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”

Rồi thiên thần từ biệt ra đi.

Suy niệm

Thiên Chúa sẽ cho các ngươi một dấu lạ: này, trinh nữ sẽ thụ thai, bà sẽ gọi tên con là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa, Đấng mà “không ai đã thấy mà không phải chết”, lại đã được cưu mang trong lòng một con người, đã trở thành một xương một thịt với loài người. Đó là dấu lạ lớn lao nhất, một dấu lạ có một không hai trong lịch sử nhân loại này. Do thói quen “gần chùa gọi Bụt bằng anh”, con người hôm qua cũng như chúng ta hôm nay đã không nhận ra được dấu lạ lớn lao đó; và nếu có, thì lại nghĩ đó chỉ là đặc ân riêng dành cho Trinh Nữ Maria, người mà thánh sử Luca trong Tin Mừng hôm nay đã miêu tả: “Bà có phúc, vì được Thiên Chúa ở cùng.”

Dấu lạ vĩ đại ấy không phải là của riêng Đức Maria, và tiên tri Isaia đã không loan báo việc Thiên Chúa ở cùng một người, nhưng là “ở cùng chúng ta”. Như thế, nếu Thiên Chúa đã trở thành một xương một thịt với Đức Maria, thì chắc chắn Ngài cũng sẽ trở thành một xương một thịt với chúng ta. Vì chính Ngài đã tuyên bố: “Mẹ Ta là người nghe và giữ Lời Thiên Chúa”; và lúc khác Ngài nói: “Những gì các con làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất này là các con làm cho chính Thầy.” Chính Ngài đã thực hiện lời tuyên bố đó khi quả quyết rằng: “Ai giữ lời Thầy thì ở trong Thầy.” Và nhất là vào lúc cuối đời, khi biết rằng đã đến giờ Ngài không còn hiện diện cách hữu hình với các môn đệ của Ngài nữa, Ngài đã cầm lấy bánh, âu yếm nhìn họ và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy. Ai ăn Thầy thì ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy.” Ở trong Ngài là gì nếu không phải nên một với Ngài? Thiên Chúa đã thực sự nên một với chúng ta. Đó là dấu lạ vĩ đại nhất, lớn lao nhất, một dấu lạ làm đảo lộn tất cả thân phận và vận mệnh của con người và vũ trụ này, đến độ ta có thể nói rằng: vì đã được nên một với Thiên Chúa, nên ta cũng là những hiện thân của Thiên Chúa.

Thế nhưng, cuộc sống cứ lặng lẽ trôi. Những khuynh hướng tội lỗi trong ta cứ ngày một vùi dập đời ta. Những thất trung, phản bội ngày một lan tràn trong nhân loại. Thêm vào đó, những tham muốn tiền bạc, của cải, những đam mê nhục dục cứ mãi lồng lộn trong ta. Có lúc ta tưởng chừng như không có Thiên Chúa. Có lúc, cũng như người Do Thái xưa, ta đã thách thức Ngài: “Ông hãy làm dấu lạ gì đi, để chúng tôi tin ông. Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá đi!” Trước những thách thức ấy của ta, trước những gào thét đắc thắng của nhân loại hôm nay, Thiên Chúa vẫn im lặng. Ngài vẫn âm thầm thực hiện một dấu lạ vĩ đại nhất là nên một với loài người tội lỗi chúng ta. Tiếc rằng chẳng mấy ai nhận ra được dấu lạ ấy, chẳng mấy ai đón tiếp Ngài.

Để Thiên Chúa có thể nên một với mình, Đức Maria đã hoàn toàn xóa bỏ mình để thưa “vâng” với Người trong tất cả những biến cố vui mừng và bi đát nhất trong đời mình. Để có thể nên một với Thiên Chúa, Đức Maria đã hoàn toàn bỏ mình, hối hả ra đi khỏi nhà đem Tin Mừng cho bà Êlisabét. Mẹ đã thực sự chết đi đối với tất cả những gì là của mình, để chỉ biết sống cho Thiên Chúa và cho loài người.

Thiên Chúa vừa ngỏ với ta một Tin Mừng lớn lao nhất là cho ta được nên một với Người. Chúa Giêsu sắp mời ta dùng bữa với Ngài để Ngài thực sự nên một với ta. Hơn bao giờ hết, nhất là trong những ngày chuẩn bị mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng đã sinh vào trần thế để cho ta được nên một với Ngài và nên con cái Thiên Chúa, ta hãy noi gương Đức Maria, luôn biết xóa bỏ mình, sẵn sàng vui lòng đón nhận mọi biến cố vui buồn Thiên Chúa gửi đến cho ta trong tâm tình biết ơn Người, và nhất là biết đối xử với anh em trong tình yêu thương, tha thứ; vì giống như ta, họ chính là hiện thân của Đức Kitô, Đấng đã nộp mình vì ta để ta được nên một với Ngài và nên một với nhau.

Xin Chúa Giêsu Giáng Sinh biến đổi tất cả chúng ta thành một nhân loại mới, luôn được nên một với Ngài ngay từ hôm nay.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng con.
Xin ban cho chúng con trái tim đơn sơ như Đức Maria,
để biết xóa bỏ mình, thưa “xin vâng” mỗi ngày,
và trở nên nơi cư ngụ sống động của Chúa giữa trần gian.
Amen



NGÀY 21 THÁNG 12

Dc 2,8-14; Lc 1,35-45

✠ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca

Khi ấy, sứ thần Gabriel nói với Đức Maria rằng: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.

Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già nua mà cũng đang cưu mang một người con trai; bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Bấy giờ Đức Maria thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”

Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng mà nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, vừa khi tiếng em chào đến tai tôi, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

Suy niệm

Tác giả sách Diệu Ca trong bài đọc I hôm nay đã diễn tả niềm vui bằng một hình ảnh thật sống động: người yêu của tôi đang đến, chàng chờ bên cửa sổ, chàng nói với tôi; chàng mời tôi đồng hành với chàng giữa thiên nhiên rực nắng và rộn tiếng chim ca.

Không niềm vui nào sâu đậm hơn cuộc tao ngộ của đôi bạn tình, và cũng không một đau khổ nào chua xót hơn cảnh ly tán của hai người yêu nhau:

“Người đi, một nửa hồn tôi chết,
một nửa hồn kia bỗng dại khờ.”

Chúa Giêsu đã từng ví mình như người bạn tình của Giáo Hội. Ngài chính là niềm vui của mọi người chúng ta. Ở đâu có Ngài, ở đó có hoan lạc. Nơi đâu Ngài hiện diện, nơi ấy chan hòa hạnh phúc. Những ai có Ngài sẽ trở thành niềm vui cho mọi người. Đó là một thực tại đã được thánh Luca mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay. Sau khi đã được cưu mang Con Thiên Chúa, Đức Maria đã đon đả đi lên miền núi. Mẹ mang trong lòng một niềm vui, và niềm vui ấy đã thôi thúc Mẹ phải ra đi gieo rắc cho mọi người.

Quả thế, khi Mẹ vừa gặp bà Êlisabét, niềm vui nơi Mẹ đã bùng nổ ra, làm cho không chỉ mình bà Êlisabét được chìm ngập trong hạnh phúc mà con bà cũng hân hoan và nhảy mừng trong lòng bà. Niềm vui mà Đức Maria đem đến cho bà không phải là niềm vui thuộc về thế gian, nhưng là niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa. Điều làm cho bà Êlisabét ngây ngất chính là vì bà đã được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm. Như thế, Chúa Giêsu chính là nguồn hoan lạc và hạnh phúc của tất cả chúng ta, như Ngài đã khẳng định với người Pharisêu: “Bao lâu tân lang còn ở với họ, họ sẽ không ăn chay.”

Thiên Chúa không dựng nên ta để ta phải đắm chìm trong sầu khổ; trái lại, Người đã dựng nên ta để ta được hạnh phúc ngay ở đời này và trở thành niềm vui cho những người khác.

Chúng ta đã từng tham dự những cuộc vui của thế gian này. Những cuộc vui ấy ngắn ngủi, mau qua và khi đã qua rồi, lại còn để lại trong ta những trống rỗng, héo tàn. Chỉ một mình Thiên Chúa mới là niềm vui bất diệt của ta. Ai biết đón nhận Người sẽ ngây ngất, sẽ hạnh phúc suốt đời.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ tự hỏi: ta đã được thánh tẩy, ta đi lễ hằng ngày, có khi rước lễ hằng ngày, đời ta đã có Chúa; thế sao ta vẫn cứ đau khổ, và còn gieo rắc khổ đau cho cả những thân nhân, bạn bè?

Khi có Chúa nơi mình, Đức Maria đã nên một với Ngài, đã hoàn toàn để Ngài hướng dẫn mình. Đời Mẹ, lẽ sống của Mẹ chỉ còn là một lời “xin vâng” tuyệt đối. Chính vì thế mà những lao đao cơ cực, những nhọc nhằn đắng đót đã không dập tắt được niềm vui và sự bình an trong lòng Mẹ.

Kể cả khi phải sinh con trong chuồng bò rét ướt, khi lạc mất con trong Đền Thờ, cho tới khi phải bồng xác con giá lạnh, bầm dập những vết đòn roi, Mẹ đau khổ thật, nhưng những đau khổ ấy vẫn không vùi lấp được sự bình an của người biết phó thác mọi sự cho Thiên Chúa.

Chúa Giêsu, niềm hoan lạc của ta, đang đến. Ngài cũng sẽ mời gọi ta cùng đồng hành với Ngài trong cuộc đời lao nhọc này. Ngài sẽ cùng ta chung chia gánh nặng đời chồng chất. Nếu ta biết hoàn toàn phó thác đời ta cho Ngài, biết luôn thưa với Ngài lời xin vâng chân thành, thì chắc chắn, dù gian truân, cấm cách, bắt bớ, đau khổ và chết chóc, không gì có thể tách ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa trong Đức Kitô. Khi đó, không những ta được hạnh phúc mà còn là niềm vui cho mọi người ta gặp gỡ trong đời.

Xin Chúa Giêsu, Đấng đang đến với ta trên bàn thờ này, hợp nhất ta lại với Ngài, để hạnh phúc của Thiên Chúa triển nở mãi trong đời ta và tỏa lan sang tất cả mọi người ngay từ hôm nay.

Lời nguyện 

Lạy Chúa Giêsu, nguồn mạch mọi niềm vui đích thực,
xin đến cư ngụ trong lòng chúng con,
để giữa bao gian truân của cuộc đời,
chúng con luôn biết tín thác, thưa “xin vâng” như Mẹ Maria,
và trở nên khí cụ mang niềm vui và bình an của Chúa
đến cho tất cả những ai chúng con gặp gỡ.
Amen.



NGÀY 22 THÁNG 12

1 Sm 1,24-28; Lc 1,46-56

✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca

Khi ấy, Đức Maria nói:
“*Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót
những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”

Đức Maria ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

Suy niệm

Không một biến cố buồn vui, lớn nhỏ nào mà lại không phải là ân huệ của Thiên Chúa và không có lợi cho sự sống đời đời của ta. Bà Anna, mẹ ngôn sứ Samuel, vì son sẻ không con, đã bị khinh khi, nhục mạ. Trước cảnh cùng cực đó, bà đã than khóc với Thiên Chúa và chỉ biết tin tưởng tựa nương nơi Người. Tiếng than khóc đầy tin tưởng của con người cùng khổ ấy đã thấu tới tai Thiên Chúa. Người đã cho bà sinh hạ một con trai, và hôm nay, để đền đáp tình yêu Thiên Chúa, bà đã dâng hiến con cho Thiên Chúa, để Người tự do sử dụng. Thân phận bất hạnh của bà đã được Thiên Chúa biến đổi hoàn toàn để trở nên thân phận diễm phúc được làm mẹ của một ngôn sứ. Nhưng bà Anna chỉ là hình bóng của một phụ nữ tuyệt vời khác, Người đã hát mừng Thiên Chúa bài ca tạ ơn “Magnificat” mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay.

Đức Maria đã được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một vinh dự lớn lao nhất của một người “làm mẹ”, đến nỗi Thiên thần Gabriel đã phải chào kính Mẹ là người đầy ơn phúc; bà Êlisabét phải xúc động thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi?” Diễm phúc ấy có lần đã được ca tụng công khai trước công chúng: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy.” Đức Maria không dửng dưng trước diễm phúc ấy, nhưng hoàn toàn trái ngược với ta: Mẹ không vênh vang, không lên mặt, mà trái lại, Mẹ đã ngước mắt nhìn trời và thưa cùng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, vì Người đã đoái thương thân phận hèn mọn của tôi tớ nữ Người.”

Thánh Luca đã đưa Đức Maria vào chương đầu của Tin Mừng của ngài, và suốt 23 chương tiếp theo, ngài hầu như không nhắc gì đến tên của Mẹ. Ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ được ban cho loài người nhờ sự chết và phục sinh của Đức Kitô; thế mà cả trong biến cố trung tâm ấy, thánh Luca cũng không hề nhắc đến sự hiện diện của Mẹ. Bởi theo thánh nhân, ngay khi được đầu thai trong lòng mẹ mình, Đức Maria đã được hiến thánh, đã được cứu chuộc rồi.

Cuộc đời Đức Maria, con người được cứu chuộc đó, đã được thánh Luca mô tả bằng hai từ duy nhất: “fiat” – xin vâng, và “Magnificat” – tạ ơn. Quả thế, lời xin vâng và tạ ơn ấy chỉ một lần vang lên, nhưng lại vang lên trong suốt đời Mẹ. Cả khi phải sinh con trong chuồng bò, đến khi phải bế con chạy trốn; cả lúc bị lạc mất con, đến khi phải ôm lấy xác con giá lạnh. Lời xin vâng và tạ ơn vẫn mãi vọng vang trong đời Mẹ, đến nỗi đời Mẹ đã được thêu dệt bằng hai lời tuyệt diệu đó.

Chúng ta đã được Thiên Chúa cứu chuộc, đã được nên ruột thịt của Chúa Giêsu, được nên một với Ngài, thế mà dường như ta vẫn ở ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu dường như vẫn là một người xa lạ đối với ta. Có lẽ tại đời ta thiếu hẳn lời xin vâng và tạ ơn của Đức Maria, hoặc lời xin vâng và tạ ơn ấy mới chỉ là lý thuyết, chưa trở thành sự sống, chưa trở thành hành động cụ thể trong đời ta.

Hôm nay, Thiên Chúa vẫn đang nói với chúng ta qua Lời Ngài, qua các biến cố lớn nhỏ trong đời chúng ta, qua bạn bè, qua cả những kẻ thù ghét chúng ta. Người vẫn đang đợi chờ lời “xin vâng” và “tạ ơn” của chúng ta. Nếu ta biết xin vâng và tạ ơn như Đức Maria, Chúa Giêsu sẽ thực sự nhập thể trong chúng ta, và cùng với chúng ta, Ngài sẽ biến cuộc đời của chúng ta thành lời xin vâng của chính Ngài và của Mẹ Maria. Vậy ngay lúc này đây, chúng ta hãy thưa “vâng” với Thiên Chúa, để Chúa Giêsu Thánh Thể thực sự có một chỗ trọ trong lòng chúng ta.

Xin Chúa Giêsu dạy chúng ta biết xin vâng và tạ ơn như Ngài, để nhân loại hôm nay còn thấy được sự hiện diện của Ngài giữa thế gian này.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
giữa những ngày chuẩn bị mừng Con Thiên Chúa giáng sinh,
xin dạy chúng con biết thưa “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh
và biết tạ ơn trong từng biến cố của đời mình,
để chính Chúa được nhập thể trong chúng con,
và qua chúng con, thế gian hôm nay còn nhận ra
lòng thương xót và sự hiện diện sống động của Chúa.
Amen.



NGÀY 23 THÁNG 12

Ml 3,1-3.5-6; Lc 1,57-66

✠ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 1,57-66)

Đến ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai.
Láng giềng và thân thích nghe biết Chúa đã tỏ lòng thương xót lớn lao đối với bà, thì cùng chia vui với bà.
Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và định đặt tên cho em là Dacaria, theo tên cha.
Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan.”
Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.”
Rồi họ làm hiệu hỏi người cha xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì.
Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan.” Ai nấy đều bỡ ngỡ.
Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông được mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa.
Mọi người láng giềng đều sợ hãi, và khắp miền núi Giuđêa, người ta bàn tán về những sự việc ấy.
Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra sao đây?”
Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.

Suy niệm

Trong phần Phụng vụ Lời Chúa ngày cuối cùng của Mùa Vọng hôm nay, ngôn sứ Malakhi đã loan báo việc Thiên Chúa sẽ sai một sứ thần đi trước để dọn lối cho Người. Đó là vị sứ giả giao ước mà dân luôn mong chờ. Nhưng vị sứ giả đó là ai?

Theo thánh Luca, có lẽ đó chính là Gioan Tiền Hô. Chính ngài đã tự nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi.” Chính Chúa Giêsu cũng có lần coi Gioan như một Êlia phải đến trước để dọn lối cho Ngài. Như thế, ta có thể nói Gioan là một ngôn sứ đã được tuyển chọn không chỉ để công bố cho dân ý định của Thiên Chúa, mà còn để dọn đường cho con người đón nhận Đấng Cứu Độ. Nhưng Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng. Và khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, Thiên Chúa đã nói toạc ra những gì thâm sâu nhất của cõi lòng Người cho ta. Với Người Con nhập thể của Người, Thiên Chúa không chỉ nói với ta bằng lời, mà còn nói với ta bằng chính hành động và cuộc sống của một con người cụ thể.

Toàn bộ đời sống và hoạt động của Người Con ấy là: loan Tin Mừng cho người nghèo khó, giải thoát kẻ giam cầm, cho người đói được ăn, kẻ què được đi, người phong được sạch, kẻ bệnh được lành và người chết sống lại. Rồi vào lúc cuối đời, Người Con ấy đã hiến mình cho loài người bằng hy tế thập giá và tiếp tục nuôi dưỡng họ bằng chính Thịt Máu Ngài, để ai ăn Ngài thì được nên một với Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với ta có thể tóm gọn trong lời duy nhất này: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người.” Người Con ấy như một hạt giống đã được Thiên Chúa gieo vào thửa ruộng nhân loại, để sưng phồng và thối rữa đi, làm cho ức triệu triệu người khác được nên giống Con Thiên Chúa. Người Con ấy như một dúm men Thiên Chúa đã vùi vào đám bột nhân loại này, để tất cả mọi người được dậy men Giêsu mà nên con cái Thiên Chúa.

Chúng ta không chỉ là ngôn sứ như Gioan, mà hơn thế nữa, chúng ta đã được dậy men Giêsu để nên những Giêsu khác. Chúng ta không chỉ dọn lối cho Thiên Chúa, mà còn là những người công bố cho loài người Tin Mừng lớn lao này: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người.” Vì đã được dậy men Giêsu, chúng ta không chỉ công bố bằng môi miệng mà bằng chính cuộc sống của chúng ta, cuộc sống đã được ngôn sứ Malakhi mô tả: chống lại ngoại tình, chống gian trá, chống áp bức đồng loại và tuyệt đối kính sợ Thiên Chúa. Đó cũng là cuộc sống mà chính Chúa Giêsu đã nêu lên như tiêu chuẩn của con cái Thiên Chúa, những người được chúc phúc và được hạnh phúc với Cha trên trời: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người rách mặc, an ủi kẻ sầu khổ, viếng thăm kẻ liệt lào, tù tội, giải thoát kẻ bị áp bức bất công.

Đêm mai, chúng ta sẽ tưởng niệm việc Chúa Giêsu làm người như ta và với ta. Mỗi người sẽ được mời gọi trở thành hiện thân của Ngài, sẽ được dậy men Giêsu để nên những Giêsu khác giữa thế gian này. Chúng ta may mắn vì đã được nên một với Ngài, nhưng còn biết bao nhiêu những “Giêsu” khác đang cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đang bị đối xử bất công, đang sống trong cảnh thiếu nhân phẩm. Với tư cách là hiện thân của Đức Giêsu Kitô, chúng ta có bổn phận phục hồi phẩm giá cho họ, làm cho phẩm giá của họ được thực sự ngang tầm với phẩm giá của con cái Thiên Chúa, làm cho họ trở thành những Đức Giêsu Kitô khác bằng chính đời sống yêu thương và tôn trọng của chúng ta. Đó là những chuẩn bị cần thiết nhất để dọn lòng đón mừng Chúa Giáng Sinh.

Ước gì ngay hôm nay, khi được nên một với Chúa Giêsu trong Thánh lễ này, chúng ta thực sự trở thành hạt giống Giêsu, sẵn sàng sưng phồng và thối rữa đi để làm nảy sinh muôn ngàn Đức Giêsu Kitô khác trong nhân loại hôm nay. Xin Chúa Giêsu Giáng Sinh trong lòng chúng ta, để từ nay chúng ta trở thành chính Ngài, luôn biết đem tình thương của Thiên Chúa đến cho mọi người.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến trong thinh lặng và khiêm hạ,
xin cho chúng con biết để cho bàn tay Chúa dẫn dắt đời mình,
để từng lời nói, từng chọn lựa và từng hành động của chúng con
trở nên con đường dọn sẵn cho Chúa đến với thế gian.

Xin cho chúng con, khi mừng Chúa Giáng Sinh,
thật sự trở nên những “Gioan” của thời đại hôm nay:
sống trung thực, yêu thương và khiêm tốn,
để người khác nhận ra Chúa đang ở giữa họ.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Mới hơn Cũ hơn